Tuesday, April 28, 2009

Việt Star Online và Việt Báo On line






Ai Hữu Đồng Đế Kỷ Niệm 30-4 ‘đêm Nhớ Thời Chinh Chiến’ Việt Báo Thứ Tư, 4/29/2009, 12:00:00 AM

Westminster ( Cổ Ngưu )- - Tại câu lạc bộ Hoàng Sa (Nhà hàng Paracel ) hơn 400 quan khách, đại diện các quân binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt có sự tham dự của một số các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam (Vietnam Veterans Association). Các em hậu duệ trong quân phục Biệt Đồng Quân với đầy đủ quân trang, quân dụng như một chiến sĩ tác chiến trông thật oai hùng đã gợi nhớ những ngày sa trường lửa đạn để chống cộng sản xâm lăng.
Đêm nhớ về thời chinh chiến cũng là đêm tưởng niệm nhân ngày 30 tháng 4 để nhớ về những đồng đội đã hy sinh trên chiến trường, trong lao tù cộng sản, những đồng bào đã bỏ mình trong đường tìm tự do. Phần nghi thức chào Quốc Kỳ Việt Mỹ và phút mặc niệm do toán hậu duệ cùng ban hợp ca Hoa Biển phụ trách theo lễ nghi quân cách. Sau đó Quốc Kỳ được gấp lại và đưa lên bàn thờ tổ quốc. Giây phút thật cảm động, trên bàn thờ với 1 cây nén, 1 cái nón sắt, 1 lá cờ POW-MIA, 1 đĩa cơm, 1 đôi đũa và 1 ly rượu.
Bên cạnh là những quân trang, quân dụng, nón sắt, giây ba chạc, áo giáp, súng phóng lựu, M- 16, đại liên M -60. Nhìn cây súng M-16 dựng ngược với cái nón sắt úp trên báng súng một biểu tượng cho người tử sĩ trông thật cảm động. Thiếu Tướng Trần Văn Nhựt trong quân phục Thủy Quân Lục Chiến với nhiều huân chương đeo trên ngực trong đó có Đệ Tam Đảng Bảo Quốc Huân Chương chủ tọa lễ tưởng niệm.
Sau nghi thức tưởng niệm, chương trình văn nghệ "Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến" với chủ đề vinh danh người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa do ban hợp ca Hoa Biển, Biệt Đoàn Văn Nghệ, với sự cộng tác của các ca sĩ thân hữu như: Phượng Khanh, Lệ Hằng, Xuân Thy, Tuyết Hạnh, Hoàng Dung . . .cùng của toán hậu duệ trong các tiết mục nhạc cảnh qua hình ảnh chiến tranh với những bản nhạc như Anh Đi Chiến Dịch, Vùng Trời Ngày Đó. . .
Cuối chương trình Ong Phạm Hòa, Hội trưởng Đồng Đế, trưởng ban tổ chức lên ngỏ lời cảm ơn tất cả tham dự và Ong cũng cho biết số tiền thu được sau khi trừ chi phí còn lại 1, 700 Mỹ kim, số tiền nầy ban tổ chức sẽ gởi về cho các anh em thương phế binh thuộc quân trường Đồng Đế đang sống cơ cực tại quê nhà trong dịp nầy nhà văn Ninh Thuận cũng đã dành khoản tiền bán sách được $ 280 Mỹ kim để tặng cho anh em thương phế binh Đồng Đế. Chương trình kết thúc trong bầu không khí thân thương của những người lính không bao giờ quên câu " Huynh Đệ Chi Binh."

Tuesday, April 21, 2009

Blue Ridge (LCC19) Thiên Thần Áo Xanh




Thay cho lời giới thiệu:

Một số lớn những người Việt tha hương (tỵ nạn) và những người đang lê lết một cuộc đời cùng khổ, đầy bất công, áp bức dưới chế độ CS tại quê nhà đều có những quảng đời - là những cuốn phim mà không một cuốn phim nào dầu chiếm được hàng bao giải thưởng cũng không sao sánh bằng; là những tập truyện mà không một tập truyện nào dầu thuộc loại bán chạy nhất cũng không làm sao qua mặt được.

Những quãng đời đó dầu có thực sự được quay thành phim, viết thành truyện cũng không bao giờ có thể lột tả, nói lên được tất cả những gì đã xảy ra chung quanh họ, và những gì đã diễn ra trong lòng họ. Do đó chỉ có chính họ, là những người trong cuộc, là những chứng nhân, là những nhân vật trong cuốn phim, trong tập truyện của đời mình mới cảm nhận được tất cả những sự âu lo, phiền muộn, những nổi buồn xót xa, câm nín, những niềm hy vọng mong manh, thoáng chốc, những nỗi tuyệt vọng não nề, buông xuôi cho số kiếp, những sự sợ hãi, kinh hoàng đến chết ngất, những cơn đói khát vật vã, rã rời, những nỡi uất nghẹn đắng cay đến tột cùng, những nỗi tủi nhục tối tăm sâu thẳm, những nỡi mừng vui nghẹn ngào đầy nước mắt, những nỡi đớn đau quằn quại có lúc chất ngất trong lòng có lúc ray rức kéo dài như vô tận... Quãng đời họ là những cuốn phim không cần đạo diễn dàn dựng, là những tập truyện không cần hư cấu bởi nhà văn, là những câu chuyện sống thực cùng với nhịp tim, hơi thở và những cảm xúc của một đời người.

---o0o---

Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 28 năm, tuy vậy ký ức tôi vẫn còn ghi rõ, vì đó là một kinh nghiệm đau thương, hãi hùng nhất trong cuộc đời tôi..

Trưa hôm đó (10/09/1980/ ) một buổi trưa gần cuối Thu, trời Đà Nẵng bổng dưng mây kéo về đen kịt, và mưa đổ không ngớt, tôi đang khe khẽ hát những câu ca dao ru con ngủ, nhìn con ngủ mà lòng xót xa, nghĩ rằng tương lai nó sẽ mù mịt như bầu trời ngoài kia, vì nó không may sanh ra trong một đất nước không có tự do. Nhà nội nó thì bị nhà nước trưng dụng, cả gia đình nội phải dồn vào một nhà kho chật hẹp tối tăm ẩm thấp để sinh sống. Không chỗ nương thân ba mẹ nó phải bồng nó chạy về nhà ngoại để tá túc... Thình lình tiếng chuông trước cổng nhà vang lên cắt đứt dòng tư tưởng, tôi nhẹ nhàng xỏ vội đôi dẹp nhựt đi xuống lầu thì đã thấy má tôi mở cửa đón khách vào nhà. Đó là một chàng thanh niên, anh ta là người bà con với ông chủ tàu mà gia đình tôi có dịp bàn tính chuyện vượt biên. Sau khi được trấn an là không có ai khác ngoài má tôi, ông ngoại và tôi, thì người thanh niên này vô đề liền: "Bây giờ mưa to gió lớn và biển đang động, công an biên phòng không nghĩ rằng có ai to gan dám vượt biên trong thời tiết này, nên mình phải nắm lấy cơ hội". Rồi người thanh niên này bắt đầu cho biết giờ giấc, điểm hẹn và cách gặp người dẫn đường, xong anh ta vội vã đội mưa ra về.

Không khí trong nhà trở nên căng thẳng vì lòng mỗi người đầy những nỗi lo âu: chồng tôi đi làm chưa về, 2 em trai cũng không có mặt tại nhà, không có cách nào liên lạc được, còn ngoài kia trời mưa như thác lủ, vượt biên trong lúc này có nghĩa là đem mạng đi nạp cho thần biển. Trong lúc má tôi và tôi đang rối lên không biết toan tính như thế nào, thì ông ngoại tôi bảo quỳ xuống để ông cầu nguyện. Khi ông ngoại tôi vừa dứt lời cầu nguyện thì hai em trai của tôi về tới, lúc đó gần ba giờ chiều. Và chúng tôi lại thêm một phen sốt ruột chờ chồng tôi nữa, rất may hôm đó chồng tôi về nhà sớm hơn mọi khi vì trời mưa nên bạn bè không rũ đi nhậu, cuối cùng rồi mọi người cũng về đầy đủ, cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu từ đó.

Theo như lời người thanh niên lúc trưa căn dặn, tôi và hai em trai tôi đi phà qua sông Hàn, lúc đó khoảng gần 5:30 giờ chiều, sau khi phà cập vào bến quận Ba, An Hải, chúng tôi phải đảo mắt kiếm người thanh niên nào có mang dây chuyền hình cái neo, trời lúc đó nhá nhem tối và mưa rất lớn nên rất khó cho chúng tôi tìm người mà mình chưa bao giờ biết mặt. Người dẫn đường nhận ra được dáng điệu dáo dác của chúng tôi, nên anh ta tiến tới trước mặt chúng tôi không nói gì hết rồi lặng lẽ bước đi (đó là mật hiệu), chúng tôi thấy nơi cổ của anh có sợi dây chuyền hình cái neo, do đó người này đi đâu chúng tôi cũng phải bám sát theo để không bị lạc. Vì nhằm giờ cao điểm kẻ tan trường, người tan sở nên việc bám sát theo người này cũng rất khó, nhiều lần bị lạc, chúng tôi ngẫn ngơ quýnh quáng không biết mình đang ở đâu, tim chúng tôi đập thình thịch vì sợ công an nghi ngờ đến bắt, nhưng rồi người dẫn đường quay trở lại kiếm được chúng tôi. Sau đó anh đi vào quán bún bò Huế ven đường, chúng tôi cũng vào theo, sau này tôi mới hiểu, thì ra phải chờ thêm một nhóm năm người con của bạn ba tôi nữa. Sợ chủ quán nghi ngờ tôi gọi ba tô bún bò Huế cho ba chị em tôi, nhưng bún đem lên chưa kịp ăn thì người thanh niên dẫn đường đứng dậy rời quán vì đã thấy nhóm năm người kia sắp bước vào, chúng tôi vội vã trả tiền và rời theo làm chủ quán cũng ngơ ngác. Rời quán bún, người dẫn đường đưa chúng tôi đến một khu nghĩa địa, anh bảo chúng tôi phải ở đó chờ người khác dẫn đường tiếp. Ba chị em chúng tôi núp ở một ngôi mộ có tấm bia thật lớn, thình lình người trong xóm cầm đuốc đi kiếm gà của họ bị lạc. Một lần nữa ba chị em chúng tôi lại một phen sợ hãi, tay chân run rẫy, tim hầu như ngưng đập vì thấy người đàn bà đó càng lúc càng tiến về nơi chúng tôi đang núp, ba chị em chúng tôi nhắm nghiền mắt và ôm chặt lấy nhau, hình ảnh nhà tù cộng sản hiện lên trong trí tôi thật kinh khiếp, nước mắt chúng tôi tuôn trào, không ai bảo ai chúng tôi cắn chặt môi cố nén tiếng khóc. Nhưng lạ lùng thay, Chúa đã ngăn trở bước đi của người đàn bà đó, khi tiếng chân của người đàn bà đến gần nơi chúng tôi ẩn núp trong gang tấc thì bà bắt được con gà của bà. Tiếng kêu oang oác của con gà làm chúng tôi bừng tỉnh lại, chúng tôi chỉ biết cúi đầu thầm tạ ơn Chúa.

Bây giờ thì trời đã tối hẳn, có một người thanh niên khác tìm đến nơi chúng tôi ẩn núp, anh ta không nói gì ngoài ba tiếng “đi theo tôi”. Anh dẫn chúng tôi đi qua những con đường đất ngoằn nghèo rồi cuối cùng dẫn chúng tôi vào một căn nhà nào đó mà bây giờ tôi không tài nào nhớ được, vì lúc đó trời tối đen như mực, ngay cả chị em chúng tôi cũng không nhìn thấy mặt nhau. Họ để ba chị em chúng tôi tại đây cho đến khoảng 12 giờ khuya (sau này tìm hiểu tôi mới biết khoảng giờ đó) thì họ dẫn ba chị em tôi ra bờ biển thuộc vùng Thọ Quan, nơi đó có sẵn một cái thúng lớn, người này lật thúng lên thì đã có một người nằm chờ dưới thúng ngồi dậy, và họ đưa chúng tôi ra tàu cá đang chờ sẵn ngoài khơi. Nhưng ra đến nơi thì chúng tôi không thấy bóng dáng chiếc tàu cá đâu hết, chung quanh chúng tôi là vùng biển rộng mênh mông với một màu đen tối rợn người. Chúng tôi ngồi trên thúng chồng chềnh theo làn sóng mà lòng bồn chồn lo lắng, rồi lần lượt những thúng khác chở ăm ắp người cũng chèo đến, gần hai tiếng đồng hồ sau thì tàu mới xuất hiện. Khi lên tàu rồi thì việc đầu tiên là tôi kiếm chồng và con tôi, vì hai người được dẫn đi đường khác. Thấy tôi, chồng tôi lên tiếng để trấn an, chồng tôi khen con tôi rất ngoan, tuy mới hơn ba tuổi nhưng dặn nó không được hỏi, không được nói, không được khóc nếu sợ bóng tối, thì nó rất ngoan ngoãn không lên tiếng trong suốt cuộc hành trình trong bóng đêm, có lẽ nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm vây quanh cha con nó.

Hai giờ sáng tàu bắt đầu chạy ra cửa biển, ra đến cửa biển sóng có phần êm hơn. Tàu chạy một lúc xa thì trời hừng sáng, mọi người thấy an tâm vì thoát được sự kiểm soát của công ban biên phòng. Bắt đầu từ đó tàu chúng tôi lênh đênh không định hướng, vì tài công là một thanh niên trẻ chỉ biết lái tàu đi đánh cá chứ không biết nhắm hướng cũng không biết xem la bàn. Trên tàu ngoài gia đình tôi năm người, năm người con của bạn ba tôi, chín người của gia đình ông chèo thúng đưa khách, ba người anh bà con của tôi và hai con trai của họ, còn có một số thanh niên nam nữ bạn của người tài công trẻ chạy theo. Do đó số người trên tàu lên đến bốn mươi lăm người kể cả mười đứa con nít dưới mười tuổi. Trong khi đó thực phẩm chỉ tính đủ cho hai mươi lăm người chính thức có trong kế hoạch vượt biên này mà thôi. Đã vậy, sau này mới vỡ lẽ ra là trước đó, gần ngày vượt biên một số lương thực bị mất cắp.

Qua đến ngày thứ ba, một cơn bão biển suýt nhận chìm chiếc tàu mỏng manh của chúng tôi giữa lòng biển cả. Tôi không thể nào quên được cơn hãi hùng này, chiều hôm đó mây đen phủ kín cả vòm trời, gió mạnh như cơn lốc, và sóng biển cuồn cuộn trổi lên, vợ chồng tôi và cháu nhỏ cùng hai em trai tôi và vài người nữa đang còn ngoài khoang tàu trong khi hầu hết mọi người khác được ở trong cabin. Cửa cabin lúc ấy bị đóng chặt, chúng tôi đập cửa khóc lóc kêu gào thảm thiết. Có lẽ những người bên trong không dám mở cửa cabin trong lúc này vì sợ nước biển tràn vào, một phần có lẽ tiếng gió và tiếng gầm thét của những đợt sóng khổng lồ át đi tiếng kêu gào của chúng tôi. Mãi đến 10 phút sau, gió càng mãnh liệt và sóng càng dữ dội hơn thì họ mở cửa cho chúng tôi vào ẩn mình. Trong những giờ phút ngoài khoang tàu, tôi vô cùng kinh khiếp khi nhìn thấy từng đợt sóng khổng lồ nâng bổng chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi lên thật cao, rồi ném chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi xuống vực sâu tối ngòm, nhìn lên tôi thấy đợt sóng khác tới nó vươn lên như một bức tường thật cao và đổ ập xuống như muốn nhận chìm chiếc tàu của chúng tôi, nước văng tung toé, tay tôi ôm chặt thanh gỗ nơi cửa vào cabin vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết. Nhiều khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao chồng tôi có thể vừa giữ chặt con vừa bám chặt vào mạng thuyền, và tất cả chúng tôi ngoài khoang tàu không bị sóng biển ném tung ra khỏi tàu, làm sao chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi có thể sống còn qua cơn bão đó, chắc chắn phải có bàn tay vô hình nào đó che chở chúng tôi, bàn tay vô hình đó chính là bàn tay của Thượng Đế.

Trong những ngày đầu còn dầu, thì tài công không biết định hướng đi đến Hong Kong, anh ta cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà chạy cho đến khi cạn không còn dầu để chạy nữa thì lúc đó chúng tôi thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa. Thì ra tàu chúng tôi trôi giạt đến Nha Trang mà tưởng rằng đang ở gần đảo Hải Nam, lương thực và dầu đã cạn, có ba người thanh niên đưa ý kiến, ai có vàng hoặc tiền bạc, đồng hồ đeo tay thi giao cho họ, họ sẽ đi thúng vào dãy núi đó mua dầu và lương thực đem ra để đi tiếp. Đó là niềm hy vọng cuối cùng nên mọi người có vàng đưa vàng, có đồng hồ đưa đồng hồ, tôi cũng cởi chiếc nhẩn cưới đưa cho ba người này (sau này đến được bến bờ tự do, chúng tôi mới hay rằng ba người này đi thúng vào bờ và bị công an bắt tại Nha Trang).

Ngày lại ngày trôi qua, nhưng bóng dáng 3 người đi mua dầu và lương thực vẫn biệt tăm. Chúng tôi chi biết cầu nguyện và phó thác đời sống mình cho Chúa. Không thức ăn, nước uống, chúng tôi phải uống nước tiểu và nước biển có bỏ đường hóa học để sống qua ngày, nhờ năm người con của bạn ba tôi có mang theo đường hóa học. Nói chung, gia đình tôi và năm người con của bạn ba tôi vì tin tưởng chủ tàu chuẩn bị lương thực chu đáo nên chúng tôi không mang theo bất cứ một lương thực nào, ngoài trừ chồng tôi trước khi đi anh có giấu được một lon sữa đặc trong túi quần cho con tôi và năm người kia có giấu theo một gói nhỏ đường hóa học. Hơn nữa, cũng để tránh cặp mắt nghi nghờ của mọi người, chúng tôi không mang theo bất cứ quần áo hay vật dụng cá nhân nào, trên người chúng tôi vỏn vẹn mỗi người chỉ có một bộ áo quần mình đang bận.

Hơn mười ngày trôi qua không thức ăn, nước uống, trẻ con khóc lóc kêu gào thảm thiết, con tôi chỉ nước trên biển mà trách chúng tôi tại sao nước trên biển nhiều như vậy mà không cho nó uống, lòng tôi đau như đứt từng đoạn ruột khi nhìn thấy con tôi và những trẻ con khác rã rời, quằn quại, rên xiết vì đói và khát. Rồi 1, 2, 3, 4, đứa con nít dần dần ra đi. Đêm hôm đó là đêm thứ mười sáu trên biển, tôi ôm con tôi vào lòng tuyệt vọng, thình lình một cơn mưa thật lớn đổ xuống, mọi người đều mừng rỡ, chồng tôi mau mắn hứng được một bình nước nhỏ, gắng sức trườn người vào cabin đưa cho tôi để tôi cho con uống, vì quá mừng nên tôi hút một hơi thật mạnh để nước chảy vào một ống nhỏ, xong tôi chuyền ống nhỏ đó vào miệng con tôi với hy vọng con mình sẽ được nuôi sống, nước vào miệng quá nhanh con tôi không kịp nuốt thì tắt thở ngay trên tay của tôi vì sức lực nó không còn nữa. Quá đau khổ, tôi ôm con chặt vào lòng và khóc, khóc thật nhiều nhưng hầu như không có một giọt nước mắt nào tuôn ra. “Khi con người quá đau khổ thì không còn nước mắt để khóc", tôi nghe câu nói này nhiều lần nhưng cứ nghĩ rằng đó chỉ là một câu trong văn chương thôi, bây giờ thì tôi thật sự kinh nghiệm về điều đó. Sáng hôm sau, một tay ẳm xác con, một tay chống đỡ lê lết tấm thân kiệt sức của mình để đem xác con ra ngoài khoang tàu cho chồng và hai người cậu nó thấy mặt lần chót. Vì chồng tôi và hai cậu nó ở cuối mõm thuyền, do đó con tôi được chuyền qua một vài người trước khi đến tay chồng tôi. Khi ở trên tay những kẻ xa lạ tôi không thấy điều gì lạ xảy ra, tuy nhiên khi chồng tôi vừa đưa tay ẳm lấy con tôi, thì tự nhiên môi con tôi sùi bọt nước miếng, và máu thật tươi tuôn ra từ lỗ mũi và hai lỗ tai của nó. Con tôi biết giờ đây nó được nằm trong vòng tay yêu thương của ba nó, một mối liên hệ phụ tử thiêng liêng được bày tỏ qua một thân xác không còn sự sống.

Dầu yêu thương con đến mức nào đi nữa cũng không thể nào giữ được xác con trong vòng tay của mình, chúng tôi đành lòng phải bỏ xác nó xuống lòng biển cả. Đặc biệt cái chết của con tôi được nhiều người thương và lo chu đáo, vài người trên tàu gỡ hai tấm ván nhỏ từ chiếc tàu của chúng tôi, họ đóng lại như hình chữ thập, đặt xác con tôi nằm trên đó, rồi dùng lưới cá quấn quanh thân hình nhỏ bé của con tôi. Họ nói rằng phải đóng ván theo hình chữ thập thì mới thăng bằng không bị sóng đánh lật úp mặt nó xuống biển cá sẽ đến rĩa ăn, họ cho rằng nếu con tôi may mắn gặp một tàu cá nào đó, họ sẽ làm phước vớt đem vào bờ để chôn vì lúc đó chúng tôi vẫn còn thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa, nên chúng tôi chỉ biết hy vọng như vậy, (trong một bản tóm tắt chuyến vượt biên của chúng tôi bằng tiếng Anh có một sơ sót nhỏ là con tôi được cột vào cục đá để bỏ xuống biển thay vì cột vào 2 tấm ván thuyền). Sau đó một người anh bà con của tôi có mang theo quyển Kinh Thánh, anh mở ra đọc vài câu trong Kinh Thánh rồi cầu nguyện trước khi thả xác con tôi xuống biển, lúc đó tôi ngoảnh mặt đi nơi khác vì không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này.

Nước mưa hứng được đêm đó đã tạm nuôi sống chúng tôi trong một thời gian ngắn. Rồi một hôm (06/10/1980/ ) tôi nằm chờ chết trong cabin vì sức tôi đã quá kiệt quệ, 26 ngày không một chút gì trong bao tử ngoại trừ nước tiểu vì nước mưa hứng được hôm trước đã không còn một giọt. Thình lình có tiếng chồng tôi và vài người nữa ngoài cabin “có máy bay, có máy bay”, tôi nhìn ra thấy chồng tôi đang dùng cái áo thun trắng đã cũ mèm để vẩy ra hiệu, nhưng tôi vẫn không một chút hy vọng nào, vì đã bao lần chúng tôi thấy máy bay bay xa thật xa trên bầu trời nhưng họ nào có thấy chúng tôi đâu. Nhưng rồi tiếng máy bay trực thăng dần dần nghe rõ dần, và tiếng mọi người mừng rỡ, hình như có một lực nào thật mạnh trong tôi vực tôi dậy và tự nhiên tôi có sức để bò ra ngoài khoang tàu. Tôi thấy chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ thấp xuống, lúc đó một người trên tàu chúng tôi viết hàng chữ bằng tiếng Anh “Don't drop any food, Please rescue us”, thì ngay lập tức một quân nhân Mỹ trên máy bay trực thăng viết hàng chữ bằng tiếng Việt “chờ năm phút sẽ có tàu đến”. Rồi họ bắt đầu bắn những trái khói màu quanh tàu của chúng tôi để định vị trí cho tàu lớn đến cứu. Vài phút sau qua làn khói màu tản mác, từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy một vật nhỏ di động rồi từ từ lớn dần, chẳng mấy chốc trước mặt chúng tôi sừng sững một chiếc tàu chiến khổng lồ cách tàu chúng tôi ở một khoảng cách an toàn. Đó là chiếc Soái Hạm (Command Ship) của Đệ Thất Hạm Đội có tên là “Blue Ridge LCC19”. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ như được sinh lại lần thứ nhì. Đoàn thuỷ thủ bắt đầu bỏ thang dây xuống và đi ca-nô qua tàu chúng tôi. Trên ca-nô có 4 người lính Hải Quân mang phao cá nhân, và nổi bật hơn hết là lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tung bay trước gió, nhìn lá cờ mà lòng tôi bồi hồi xúc động vì nó biểu tượng cho Tự Do và tình nhân loại. Họ dùng loa yêu cầu chúng tôi giữ bình tỉnh, anh Hải Quân cầm tay lái cố gắng điều khiển chiếc ca-nô cặp sát vào tàu chúng tôi, trẻ em và phụ nữ được ưu tiên di chuyển qua tàu chiến trước, sau cùng là nam giới. Các thuỷ thủ, một tay kẹp chúng tôi và một tay chụp lấy thang dây để leo, hàng chục cánh tay thòng xuống kéo chúng tôi lên. Đối với tôi, đó là giờ phút vô cùng thiêng liêng và vô cùng xúc động, nó cho tôi thấy chỉ có những người của chủ nghĩa Tự Do mới thể hiện được tình yêu thương nhân loại và cảm thông được những đau thương mất mát của những người vì 2 chữ Tự Do mà liều mình vượt biển.


Khi tất cả chúng tôi được an toàn đưa lên chiếc Soái Hạm này rồi, thì điều đầu tiên là họ cho chúng tôi mỗi người 1 ly súp lỏng (clear soup) đang còn nóng hổi và sau đó họ bắt đầu khám tim mạch từng người. Tôi và em tôi cùng một vài phụ nữ khác vì quá yếu nên được chuyển lên Medical Clinic. Tại đây chúng tôi được chăm sóc sức khoẻ thật chu đáo, họ bồng chúng tôi đi tắm, dĩ nhiên là họ rất tôn trọng phụ nữ chúng tôi, nên họ chỉ mở nước điều chỉnh ở độ ấm vừa phải và dạy chúng tôi cách dùng thuốc gội đầu đặc biệt để giết chí, rồi họ đứng canh ngay cửa phòng tắm để đề phòng trường hợp chúng tôi bị té hay bất cẩn gì đó. Chúng tôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng nhân ái bao la của những người lính Mỹ khác màu da, họ không màng đến thân hình xơ xác bẩn thỉu hôi hám của chúng tôi, trong khi chí trên đầu rơi rớt đồm độp, nhưng họ ôm chúng tôi vào lòng, bồng ẳm chúng tôi khi chúng tôi cần những phương tiện vệ sinh cá nhân. Sau đó họ phát cho chúng tôi mỗi người 1 áo thun trắng và đồ lót để bỏ đi những áo quần hôi hám mà suốt 26 ngày đêm dầm với mồ hôi, dầu nhớt, nước tiểu và nước biển mặn.

Tôi còn nhớ rõ một kỷ niệm rất buồn cười mà tôi đã làm những người trong đội y tế một phen cười nứt bụng, đó là ngay sau khi uống cạn ly súp đầu tiên khi vừa mới được chuyển lên tàu, một anh y tá hỏi tôi rằng “How do you feel”?, tôi trả lời ngay không chút suy nghĩ “I feel healthy” (ý tôi muốn nói là “tôi cảm thấy Khỏe”) tức thì cả đội y tế ôm bụng cười ngặc nghẻo trong khi đó thân hình tôi không khác nào bộ xương người chết. Thật ra, từ lúc bắt đầu được tàu Mỹ vớt thì bao nhiêu vốn liếng từ ngữ Anh Văn mà tôi học ở những năm trung học chưa có cơ hội thực hành thì giờ đây nó lần lượt kéo đến trong tâm trí tôi, chỉ có điều chữ nào thoáng đến trong đầu là tôi vụt nói liền không cần để ý đến văn phạm. Nhưng rồi sau đó tôi rất ngại nói, nên tôi luôn dùng bút viết xuống những gì tôi cần nói, vì khi viết tôi có thì giờ sắp xếp câu kéo cho đúng văn phạm hơn. Nhờ có chút vốn liếng Anh Ngữ nên tôi có cơ hội gần gũi với vị thuyền trưởng, các bác sĩ trong đó có 1 bác sĩ người Nhật, và các y tá, đặc biệt là anh Hải Quân đầu bếp (Mr. Clinton A. Eastwood), anh thường xuyên trò chuyện với tôi, hỏi thăm những món ăn anh nấu có ngon không, tôi có thích không (và anh cũng là người sau này thường xuyên liên lạc thư từ với gia đình tôi khi chúng tôi được đưa vào tạm cư ở trại tỵ nạn Palawan Philippines, nhờ đó mà tôi có được những bài báo và hình ảnh chụp được trong lúc được tàu vớt, và năm 1982 khi chiếc Soái Hạm Blue Rigde LCC19 đến cảng Sydney cách nơi tôi cư ngụ khoảng gần 1 tiếng lái xe, thì anh cũng tìm đến thăm gia đình chúng tôi, khi đó tôi vừa mới sanh được cháu thứ nhì khoảng mười lăm ngày (đứa thứ nhất đã mất trên biển)).

Trở về câu chuyện trên chiếc Soái Hạm, thì một hôm có phái đoàn báo chí bay trực thăng đến thăm người tỵ nạn trên tàu và để phỏng vấn. Trước khi phái đoàn đến, tôi được khuyến khích để được quay một đoạn phim ngắn trong buổi phóng vấn nhỏ này vì tôi cứ lắc đầu từ chối, tôi cứ lấy tay che mặt và nói rằng “Tôi xấu lắm, tôi không muốn người khác thấy tôi trên truyền hình và tôi cũng không biết nói tiếng Anh nhiều”, nhưng anh y tá Hải Quân người luôn kề cận chăm sóc tôi (anh Robin) đưa cho tôi một cái gương và một cái lược, anh chãi đầu cho tôi và bảo tôi nhìn trong gương rồi anh nói “Look! You're beautiful!” (tôi chưa bao giờ thấy Chung Vô Diệm nhưng tôi tự nghỉ rằng mình cũng xấu như vậy) rồi anh nói tiếp “We're going to ask you a very very simple question, so don't worry, OK”. Thế rồi trong phút chốc phái đoàn báo chí đến có luôn vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội nữa, và rồi hàng loạt đèn sáng choang chiếu thẳng đến cái giường tôi đang được đỡ ngồi, một anh phóng viên cầm máy nói gì nhiều lắm nhưng tôi không để ý vì tâm trí bận suy nghĩ không biết họ sẽ hỏi tôi điều gì. Thế rồi người phóng viên đó chậm rãi hỏi tôi từng chữ một “Why did you escape from Vietnam”? Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn “About freedom” và câu thứ hai là “How do you feel now?” lần này tôi đang tìm chữ nào khác với chữ “healthy” của hôm nọ thì anh y tá Hải Quân này mau mắn cất giọng hỏi khéo “Better”? nên tôi liền nói “Yes, I feel better”.


Năm ngày tạm trú trên chiếc Soái Hạm này rồi cũng phải đến ngày chia tay, ngày cuối trước khi chúng tôi chia tay với vị Hạm Trưởng cùng toàn thể các thuỷ thủ, tôi được vinh dự đi cùng vị Tham Mưu Trưởng đến từng giường bệnh để phát cho họ mỗi người một bản danh dự “Anh Hùng Vượt Biển” và một số tiền là 32 Mỹ Kim cho mỗi đầu người, số tiền này là do sự đóng góp của vị Hạm Trưởng và của toàn thể các thuỷ thủ trên chiếc Soái Hạm này. Tôi cũng được vinh dự đại diện cho nhóm người ty nạn trên phòng y tế này để ngỏ lời tri ân và bày tỏ lòng cảm kích của chúng tôi trước sự chăm sóc không hề mệt mỏi của toàn thể các thuỷ thủ trong các ngành. Chúng tôi luôn nhớ ơn nhân dân Mỹ nói chung và toàn thể mọi người trên chiếc Soái Hạm này nói riêng, lòng nhân đạo của họ là ngọn đuốc, là ánh sáng của thế giới Tự Do, nó sẽ chiếu sáng mãi mãi trong lòng chúng tôi, lòng của những người dân Việt tỵ nạn.


Qua những kinh nghiệm đau thương trong suốt cuộc hành trình vượt biển này, chúng tôi nhận biết rằng mạng sống con người thật quý báu, nhưng Tự Do là điều quý báu hơn hết. Lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ đã để lại trong chúng tôi niềm cảm kích và sự tri ân sâu xa, tấm gương sáng này đã chứng minh được chỉ có con người của chủ nghĩa Tự Do mới có được những đức tính đó, chúng tôi đã học được từ quý vị lòng nhân ái, vị tha, và tình thương yêu nhân loại và những hình ảnh cao đẹp này sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân Việt tỵ nạn yêu Tự Do của chúng tôi. Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đến vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông Lewis W Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D Chamberlain, cùng toàn thể thuỷ thủ đoàn của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 (dĩ nhiên trong đó có cả anh Hải Quân đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin). Hình ảnh của những vị đó sẽ không bao giờ nhạt nhòa trong ký ức chúng tôi. Chúng tôi luôn ao ước có cơ hội gặp lại những vị ân nhân này bằng xương bằng thịt để một lần nữa ngỏ lời tri ân đến họ và cũng để họ nhìn thấy gia đình chúng tôi - kết quả của việc làm nhân đạo quý báu mà họ đã thực hiện cách đây hơn 28 năm.

Tóm lại, vì quen sống trong một đất nước Tự Do Dân Chủ, vốn thừa hưởng được tất cả những quyền cơ bản của một con người, nên kể từ khi Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản thì tâm trí chúng tôi không ngừng nghỉ đến việc trốn thoát khỏi chế độ này. Vượt biên là con đường duy nhất và cái giá chúng tôi phải trả có thể là sự chia lìa (kẻ ở người đi, vợ xa chồng, con xa cha, ....), sự tù đày (chính bản thân mình và người thân cũng bị liên luỵ), cái chết (chính mạng sống mình và ngay cả mạng sống của những người thân yêu). Bằng nhiều cách, chồng tôi trước đây đã vượt biên 2 lần, anh đi một mình vì chủ tàu không nhận con nít, tôi đành để chồng ra đi và ở lại với con. Tôi nghĩ thoát được người nào hay người đó, để chồng ra đi một mình là tôi chấp nhận sẽ vĩnh viễn mất chồng vì thời gian đó chính quyền Việt Nam chưa có sự bang giao với các nước ngoài về vấn đề “Đoàn Tụ Nhân Đạo”. Nhưng hai lần vượt biên đó không thành công, lần thứ nhất bị lộ anh chạy thoát được nên không bị tù, còn lần thứ nhì thì đi với người em nhưng khi ra đến bến tàu, người chủ tàu thay đổi ý kiến chỉ nhận một người thôi nên chồng tôi nhường cho người em và người này đã đến được bến bờ Tự Do. Lần này là lần thứ ba chồng tôi được đi với vợ con vì người chủ tàu này nhận con nít, tưởng rằng lần ra đi này trọn vẹn không bỏ lại sau lưng người thân yêu của mình, nhưng cuối cùng chúng tôi vĩnh viễn mất đứa con yêu quí đầu lòng của mình, nỗi đau xót đó mãi theo chúng tôi đến cuối cuộc đời và đó chính là cái giá cho sự Tự Do mà chúng tôi đã chọn.

Hiện nay chúng tôi đang định cư tại Úc Đại Lơi, một quốc gia đầy lòng nhân ái, người dân ở đây đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và cưu mang gia đình chúng tôi trong suốt 28 năm qua và còn tiếp tục cho đến đời các con cháu của chúng tôi nữa. Không một lời nào đủ để diễn tả tấm lòng biết ơn sâu xa của gia đình chúng tôi đến với chính phủ và toàn thể nhân dân của đất nước này. Chúng tôi nguyện ghi khắc ơn sâu nghĩa nặng cho đến muôn đời.


Lý Tuyết Lê
(Viết tại Sydney ngày 09/03/09)

---o0o---


Người kể chuyện (tác giả của bài viết này) rất mong mỏi tìm kiếm, liên lạc được với các vị ân nhân đã từng cứu sống cô và gia đình cùng với rất nhiều người vượt biển khác. Vậy kính xin quý vị nào làm việc hoặc quen biết với những ai làm việc trong bộ Quốc Phòng hoặc Hải Quân Hoa Kỳ có được chi tiết của vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông W. Lewis Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D. Chamberlain, và các thuỷ thủ đoàn trên chiếc Soái Hạm (Command Ship) USS Blue Ridge LCC19 đặc biệt là anh đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin (tất cả những người này đã làm việc trên tàu này trong khoảng thời gian 1980-1982) xin vui lòng gởi về đia chỉ email: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Xin đa tạ!

The rescuee wishes to make contact with those who were the saviors of many Vietnamese boat people, including herself and her family. So she kindly asks those with information or contact details leading to the Chief of Staff for Commander of the SEVENTH Fleet, Captain W.. Lewis Chatham, the Commanding Officer John D. Chamberlain, and any of the crew on board the Command Ship USS Blue Ridge LCC19, particularly the chief cook Mr. Clinton A. Eastwood and Robin (on duty during 1980-1982). Please kindly send them to the email address: tlblueangel@ gmail.com Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó '; document.write( '' ); document.write( addy_text33869 ); document.write( '<\/a>' ); //-->\n Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó This e-mail address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it . Very much appreciated!

Dưới đây là bản tóm tắt cuộc hải trình lên đênh trên biển 26 ngày phong ba, bão táp, đói khát, chết chóc, ... do chính những người sống sót được chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cứu vớt kể lại bằng Anh ngữ. Chắc hẳn quý vị cũng phải hiểu rằng họ mới được cứu sống, chưa hoàn hồn và vẫn còn đang sống trong nỗi kinh hoàng, trong nỗi đớn đau, mất mát người thân, ... và tuy được sự giúp đỡ của thủy thủ đoàn về một số từ ngữ nhưng vốn liếng tiếng Anh của họ rất là it ỏi, hơn nữa lại được viết theo lối nói và cách suy nghĩ của người Việt Nam chúng ta (nghĩ sao nói vậy), do đó lỗi chính tả, văn phạm rất nhiều (nhưng viết được như vậy là khá lắm rồi). Cho nên khi đọc bài này, những người mà Anh văn là ngôn ngữ chính thì sẽ “điên đầu”, nhưng những người lớn (thuộc thế hệ thứ nhất) thì hiểu ngay.

Câu chuyện vượt biến (bằng Anh ngữ) của những người này đã được đánh máy và sao ra để phát cho mỗi người trong chuyến tàu vượt biển đó một bản, và cũng được lưu giữ làm tài liệu cho chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19. Vì bản sao không được rõ cho nên xin phép được đánh máy lại (nguyên văn) cho dễ đọc.

The following was written by the Vietnamese refugees from the second boat and is quoted in full:


Vietnamese refugees story of terror about 26 days on the sea (10/9 – 6/10)

After the departure of the Americans on 30/4/75, millions of Vietnamese, having given up their properties and heritages have left their country to get freedom. The freedom, they knew, that they must pay by their life or their whole family life. Even with rudimental means, many people, found their way to leave this unfortunate miserable country. During the past 5 years the communism (has given) to the VN people uncountable griefs and sorrows. All liberties were cancelled even the freedom of the press and the freedom of the religions and the economic conditions was at the worst. There we can see anywhere, guns and jails. Used to live in freedom, never we forget to go away. But the importance is to go away safely. We loved the freedom and the peace but we must get assurance for the remaining relatives in VN. We must not be caught by the communists, so the remaining could not get any consequences. At least, we left VN in the night 10/9. It rained but we must wait for the boat during 2 hours. We got numbed. At 2h35 the boat went to the sea without any difficulties with control stations Thanks to God. The wind was against us and our captains was not experienced. Instead of reaching Hai Nam, Hong Kong, we lost the position after 2 days. Our condition became worse because of the lack of fuel, foof and drinking water. On the 3rd day we conducted the boat by the sun. The 3rd night, a cyclone throwed us to the eastern. Our life were placed in the hands of God, we could do nothing. Each person had 1 tea-spoon of rice per day. The children cried because of the lack of food and drinking water. We left sorrow but could do nothing. The provisions were finished on the 6th day and the boat went anywhere God has decided. When the last drop of water vanished, and as it did not rain, the children began to die: one, two, … at the fith child-death it rained. Their corpses were tied to rock and thrown into the sea to avoid deseases. The others drank urinate or sea-water. It was a great pain but we know that, comparing with the freedom, the salty tatste of sea-water and the bad smell of the urinate were nothing. We accepted these griefs without any lamentation because we have wanted to obtain the freedom. After 7 days of sunshine, a rain has helped us to live for one more period. Now, we hoped our boat to be far in the south, so it increased chances of meeting foreign ships of fishing ships. During 26 days we have met many great ships. But they didn’t rescue us or we didn’t have any means to make signals. We were only dry and emaciated bodies because of the lack of nutrition. On 6/10 in the afternoon, suddenly, a navy helicopter saw us. We have tried to ask help and immediately LCC19 of 7th fleet rescued us at 6 o’clock. We were very happy.

The test between life and death was passed. We know that life was precious but the freedom was much more. The humanitarian spirit of the Americans gave us deep emotions. They have rescued us and made we knew that only Man of freedom would respect the dignity and the liberty of their brothers.

In our hearts, the precious and uninterrupted take care and services given by the Americans on LCC19, did not vanished forever. We thank the Amrican people and we have learned from you the generosity and the altruism and the humanitarian lesson.

The present for 33 rescued refugees, express our sincere thanks to the whole Americans in LCC19 and we wish the other loving freedom Vietnamese who have or are leaving VN could get luckyness and chances like us.

Your exemplary altruism and humanitarism will certainly adjoin the Freedom doctrine in the world; we must know that life is precious but the freedom is much more precious.

Trong cuốn sổ hải trình của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 cũng có đề cập chuyện cứu vớt chuyến tàu vượt biển kể trên – Blue Ridge LCC-19 Naval Cruise Book


http://www.e- yearbook. com/yearbooks/ Blue_Ridge_ LCC_19_Cruise_ Book/1986/ Page_69.html

Dưới đây là một số hình ảnh cảnh các thuyền nhân khi được cứu vớt lên chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 – Vui lòng vào nối kết dưới đây để xem hình ảnh kỷ niệm tình người của thế giới tự do..


http://picasaweb. google.com/ n.9oo9le/ BlueRidgeLCC19#Ghi chú: Các hình ảnh này là gồm những người trong 2 chiếc tàu vượt biển được cứu vớt trong cùng một ngày (06/10/1980) - tất cả là 92 người. Chiếc đầu tiên phát xuất từ Vũng Tàu (55 người), khi được tàu cứu thì còn khoẻ mạnh, nhưng những người trên chiếc thứ 2 phát xuất từ Đà Nẵng (là chiếc tàu trong câu chuyện này – 37 người) thì đa số đều phải nằm ở Medical Clinic vì 26 ngày đói khát lênh đên trên biển. Chiếc tàu đi từ Vũng Tàu được vớt trước, khi lên tàu họ báo là còn chiếc thứ 2 cùng đi một lần với họ nhưng bây giờ không biết ở đâu. Vì vậy trực thăng đi kiếm chiếc kia thì lại gặp được chiếc đi từ Đà Nẵng. May mắn thay!
Lý Tuyết Lê


Monday, April 20, 2009

Chuyện buồn người vợ tù




Chuyện buồn người vợ tù là một chuyện đã thực sự xẩy ra cho một người phụ nữ sau tháng tư năm 1975, Ý Cơ tin rằng hoàn cảnh ấy không xẩy ra riêng cho mình chị, mà câu chuyện thương tâm, phần nào phảng phất một nét đời đã qua nhưng khó quên của mỗi chi em chúng ta, khi có chồng, có con bị tập trung trong trai cải tao. Ý Cơ đã viết lại theo lời kể của nhân vật chính, ví thế chữ tôi được dùng trong chuyện kể, không phải là tác gỉa bài viết, rồi vẫn giữ nguyên danh tánh của hai nhân vật. (Nhân vật tên Chung trong chuyện kể này là Trung Úy Trương Kim Chung, giảng viên Tâm Lý Chiến và Xã Hội Học Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat)

Ngôi biệt thự nhỏ, khiêm tốn, cuối đường Hoàng Diệu, Dalạt. Phía sau là vườn hồng, từ đó, thấp thóang nhìn thấy những mầu áo xanh lam, của nữ sinh nội trú trường Couvent des oiseux. Đó là: “Ngôi nhà hạnh phúc!” của chúng tôi, cũng là tên do các bạn yêu thương đặt cho nó.
Chúng tôi sống êm đềm hạnh phúc, bên ba đứa con nhỏ dễ thương, và một em bé còn đang trong bụng mẹ. Căn nhà lúc nào cũng rộn rã vui tươi, nhất là khi Tết đến, nó lại có cơ hội tiếp đón những ‘Con bà phước’, đó là những Sĩ Quan huấn luyện viên của trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, không được về thăm nhà khi Tết đến, tất cả đều quây quần vui chơi, như chính nhà của họ, bởi vì, vợ chồng tôi, luôn coi các anh như người ruột thịt.
Thời gian như thế chẳng bao lâu, và cuộc sống đầm ấm ấy đã bị đảo lộn, khi tiếng súng bắt đầu nổ vang trên bầu trời Buôn Mê Thuột, để rồi dẫn đến ngày cuối tháng tư đau thương này.
Được lệnh thượng cấp rút khỏi Dalat vào cuối tháng 3/75, Chồng tôi cùng các chiến hữu, đã lặng lẽ lên đường, giữ an ninh lộ trình di tản cho dân chúng và các đơn vị bạn thuộc Tỉnh Tuyên Đức và Thị Xã Dalat, các anh là những người sau cùng rời xa Dalat.
Phải rời xa nơi chốn hạnh phúc của chúng tôi và bè bạn, anh đi mà vẫn quay đầu nhìn lại, anh muốn ở lại để bảo vệ mảnh đất thân yêu ấy, nhưng không thể cãi lệnh thượng cấp, vì anh là một quân nhân, anh kể lại cho tôi như thế, về suy tư của anh trên đường rút quân.

Sàigon thất thủ, Anh cùng một số chiến hữu đã ra đi, sau lời tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh. Nhưng.. .. đến chiều tối, Anh đã trở lại cùng mẹ con tôi, Anh đã rời chiến hạm của quân chủng Hải Quân để về cùng mẹ con tôi, vì anh không muốn xa lìa hạnh phúc đời mình, để ra đi, chỉ một mình anh như thế! Nếu biết, trở lại để rồi phải vĩnh viễn xa lìa mẹ con tôi, chắc anh vẫn quyết đinh như thế, tôi tin như vậy ở tình yêu của anh giành cho mẹ con tôi.. .. .. Đó, chính là niềm đau ray rứt, niềm ân hận khôn nguôi trong cuộc sống mẹ con tôi đến cuối đời.
Là một sĩ quan cấp uý, cuối tháng 6/75, Anh cũng như bao người khác đã trình diện để học tập cải tạo, với hy vọng sau vài mươi ngày sẽ trở về, nhưng.. .. .. ..
Vắng Anh, tôi ở lại, với bao hoang mang lo sợ, lo sợ cho sinh mệnh của anh nhiều hơn cho sự bơ vơ của mẹ con tôi. Thời gian cứ hun hút qua đi, không một tin tức nào về anh.

Tất cả chúng ta, các chị và mẹ con tôi, cũng như những người cha, ngưòi chồng yêu qúy của chúng ta, đều bị những kẻ chiến thắng lường gạt một cách một cách hèn hạ.
Anh đã cho tôi và các con anh một đời sống ổn định vững vàng, nay không có anh, tôi đã mất hết, mất cả những ước mơ toan tính cho tương lai con cái về sau, tôi chẳng còn gì, ngay cả mạng sống cũng mong manh bên cháu nhỏ mới chào đời.
Nhưng thực tế, vẫn là thực tế, dù là thực tế phũ phàng, tôi và hầu hết chị em chúng ta phải gánh chịu, phải tự vực mình đứng lên, và tự nhủ, phải đứng thật thẳng để là nơi nương tựa vững chãi cho chồng con.
Tự nhủ như thế để lấy lại can đảm, tôi đã phải ngược xuôi trăm đường, bán buôn đủ thứ nơi đầu đường xó chợ, trong cảnh vạn người bán mà chỉ có vài người mua, để thay chồng nuôi con.
Dân chúng tại các thành phố và tỉnh thị, không có gạo mà ăn. Khoai lang, khoai mì, bo bo .. .. đã trở thành lương thực chính, phân phối theo sổ gia đình, khi nào được mua bột mì, đã là một hạnh phúc lớn cho dân chúng miền nam, vì có thể lấy bột làm bánh mì để ăn, hoặc để bán, đi bán bánh mì cũng là một trong muôn nghề, tôi đã nhờ đó nuôi con.

Ngày tháng cứ qua đi, với buồn lo nặng chĩu hai vai, không người chia sẻ, tôi vẫn nhủ thầm, lúc này, mình không được gục ngã, không thể gục ngã, khi mà các con tôi còn qúa nhỏ, khi mà sự sống chết của người chồng yêu qúy không một chút tăm hơi.
Với một chiếc xe đạp cũ kỹ, tôi chạy ngược xuôi kiếm sống, nuôi con. Khi những người cầm quyền CS biết rằng, đa số chi em chúng ta, đang chiếm lòng lề đường, và những đầu con hẻm làm nơi kiếm sống, họ đã cho thi hành chiến dịch, dẹp lòng lề đường, để triệt hạ con đường sống của những vợ con ngụy.
Tôi đành chuyển cách kiếm sống, khi thì chạy thuốc tây, đôi khi vài ba mảnh vải.. .. để chuyển từ tay người muốn bán, đến tay người muốn mua, ở giữa mình kiếm vài củ khoai nuôi con.. ..
Có những lúc đạp xe muốn kiệt sức, vì từ sáng chưa có chút gì vào bụng ngòai một ly nước lạnh, trời Saigon nắng gắt, đạp xe mà không nhìn thấy gì phía trước, không biết vì mồ hôi từ trán chẩy xuống, hay những gọt nước mắt tuôn rơi. Nhiều lúc đầu óc muốn vỡ tung, vì những mưu toan sinh kế, trước những ách bức nặng nề do xã hội chủ nghĩa gây nên, ấy thế, những giây phút tưởng như cuồng điên ấy, có lẽ còn dễ chịu hơn những khi màn đêm buông xuống,
Ngồi cạnh giường, nhìn đàn con ngủ, những khuôn mặt ngây thơ vô tội, nhưng chắc cũng đã một chút ấm lòng, vì chiều nay mẹ đã mang về cho các con được hơn một ký gạo.
Nhưng còn chồng tôi đâu? đói-no, ấm-lạnh ra sao? Anh là người nặng tình vợ con, liệu có yên giấc ngủ, hay đang chong mắt nhớ vế gia đình, với những lo lắng, mà không sao Anh gánh vác thay vợ lúc này.. Chỉ có lúc này tôi mới được tự do khóc, nức nở khóc, để vơi chút buồn lo.

Thời gian qua, gần một năm sau ngày chồng tôi bị đưa đi cải tạo, tôi mới được tin chồng, dù chẳng phải tin vui, nhưng có vẫn hơn.
Anh đang bị bệnh sốt rét ác tính, và thiếu dinh dưỡng trầm trọng, không biết Anh có còn chờ được thấy em lần cuối hay không? Một người bạn đưa tin về, mong ước của Anh là được tin vợ con, trước khi Anh nhắm mắt.
Trời đất như sụp đổ dưới chân tôi, không còn đủ sức đứng vững, hay tôi đã qùy xuống để xin người về, chỉ đường cho tôi, tìm đến với người chồng bất hạnh cho kịp lúc.
Ngay tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã vội vã lên đường đi, tìm chồng. Băng rừng, vượt suối, muỗi, vắt, cắn bầm tím cả người, không màng tới, quần áo ướt rồi khô, khô lại ướt, gió lạnh căm căm nơi rừng sau, chẳng sờn.
Tìm được trại giam chồng, tôi chưa kịp mừng, một bọn đàn ông với đôi mắt cú vọ hạch hỏi đủ điều, chỉ với lý do, tại sao tôi biết điạ điêm của trại tù này.. .. Nhưng cuối cùng họ cũng cho tôi gặp Anh có lẽ vì: ”cảm phục lòng yêu chồng của phụ nữ miền nam”. Tôi đọc được điều đó, qua ánh mắt của họ gìanh cho tôi lúc đó.
Chồng tôi bệnh nặng, anh em cùng láng, cho mắc võng chồng tôi chính giữa, còn võng cuả Anh Em bao chung quanh để che gió lạnh cho chồng tôi, thật sự, có che được bao nhiêu, vì mỗi khi gió thôi tạt vào, thì tất cả đều phải đón nhận những làn gió lạnh và cát bụi bám đày mặt. Tôi đem lòng kính yêu những tấm lòng ấy, và ngỏ lời cảm ơn các anh.

Tôi chết sững, khi các anh chỉ cho tôi chiếc võng ở giữa, nơi chồng tôi đang nằm, Chồng tôi đó sao? Một người cao gần 1m80, nặng trên 70 ký, nay chỉ còn là một bộ xương sơn đen, hàm răng trắng nhô ra, làm cho đôi má đã hóp, lại càng thấy trũng sâu hơn, đôi mắt lõm sâu không thần sắc.. .. .. nước mắt như cùng lúc với tôi, nhào lăn đến bên Anh, tôi ôm ghì bờ vai Anh, đôi bờ vai ấy, những năm tháng qua đã là nơi nương tưa qúy báu cho tôi, những khi tôi buồn. Còn Anh, Anh không đủ sức kéo đầu tôi ngả vào vai như ngày xưa nữa. Thời gian như ngừng lại, các bạn Anh đứng bên cũng yên lặng ngậm ngùi, yên lặng đến độ tôi đã nghe thấy âm thanh của nước mắt tôi rơi trên vai chồng.
Làm sao tôi có thể quyên được đêm ấy, bên đống lửa bập bùng, mấy chục khuôn mặt, mà tôi chắc, trước kia oai phong và đẹp trai lắm, trong bộ quân phục VNCH .. .. nhưng.. .. bây giờ.. .. quanh tôi.. .. chỉ còn là những bộ xương biết cử động. Hai mắt tôi đã đau nhức vì khô cạn nước mắt, tôi khóc cho tôi, tôi khóc vì các anh, và chắc các anh cũng đang cùng tôi khóc cho quê hương dân tộc.
Chồng tôi nằm đó, thoi thóp thở, miệng vẫn cố cười, nụ cười héo hắt, chắc Anh đã mãn nguyện, khi biết rằng vợ con Anh còn sống?
Đứa con gái út của Anh mới được tám tháng, nên mẹ nó còn sữa, hai bầu sữa căng nhức đã kéo tôi ra khỏi cơn mê, tôi chợt tỉnh táo để xin lỗi các bạn Anh tránh ra xa môt chút, để tôi có thể san xẻ phần sữa của con tôi cho bố nó.
Bưng bát sưã, vừa bỏ thêm hai muỗng đường, xúc từng muỗng đưa lên miệng Anh, tôi hy vọng là không có giọt nuớc mắt nào của tôi, rơi vào bát sữa, để Anh không phải uống thêm những đắng cay của cuộc đời vào lúc này.
Không hiểu vì bát sữa, hay vì tôi đã đến, sáng ra Anh đã tỉnh lại nhiều, các bạn Anh bảo, nhờ có sữa tiên nên Anh mới khoẻ lại như vậy, tôi biết các bạn Anh nói đùa, vui, cho chồng tôi lên tinh thần. Xin cảm ơn các Anh.
Chiều đó tôi bắt buộc phải rời trại giam.

Trên đường về, đầu óc lại làm việc, mong sao tìm được cách kiếm tiền đi thăm nuôi chồng, càng sớm càng tốt, nếu không tôi sợ không kịp.. .. không kịp,.. .. không kịp?.. .. tôi không dám nghĩ tiếp.
Sau lần thăm ấy, tôi bị mất liên lạc, vì chồng tôi bị chuyển qua nhiều trại khác.. Mãi đến giữa năm 1977, tôi mới nhận được giấy báo của trại cho phép đến thăm Anh, tại trại an dưỡng Biên Hòa. Sau lần đó, chồng tôi cùng các bạn bị chuyển ra Bắc.
Thời gian này thật khủng khiếp, vì Anh luôn bị chuyển trai, hết Lào Cai, rồi Yên Bái, rồi Lạng Sơn.. .. .. .. !
Vừa được tin anh ở trai này, đến nơi, anh đã bị chuyển đi trại khác, tôi rượt đuổi theo anh nhiều ngày tháng, nhưng không sao bắt kịp bước đi của anh. Phải trở về, vì bốn đứa con nhỏ còn đang cần mẹ. Tôi phải hối lộ cho bọn cán bộ Bưu Điện để có những tấm phiếu gơi qùa, qua đường bưu điện, mỗi phiếu được ba ký. Phải tính tóan làm những món ăn để được lâu, một chút thịt mỡ cũng phải kho thật mặn.. .. .. trông thấy tôi làm những món ăn gởi cho Anh, các con Anh nói:”Bố sướng qúa, bố có nhiều đồ ăn ngon hơn tụi mình !”.. .. .. còn gì đau khổ và xót sa cho tôi trước những câu nói so sánh ngây thơ ấy, nhưng cũng có chút an ủi cho chúng, là còn được vét xoong.
Cuối cùng tôi cũng tìm ra, họ đã chuyển Anh về Nghệ Tĩnh, tôi vội ra thăm Anh, dù không có giấy phép, đủ mọi mưu kế, đủ mọi tính toán .. .. .. .. tôi không biết mình đã trở thành người nhiều mưu kế như thế tự bao giờ, và cuối cùng tôi đã xin được giấy chứng nhận bị mất cắp tòan bộ giấy tờ và tiền bạc, trong đó có giấy phép được thăm nuôi, nhờ thế tôi đươc vào trại giam chồng tôi. Tôi đến được trại giam vào tối thứ bẩy, qua ngày chủ nhật sẽ được gặp mặt chồng, nhưng qua hôm sau cán bộ ở trại họ cho biết, đến thứ hai mới gặp được vì chồng tội bị đi lao động xa, và họ sẽ cho gọi Anh về.
Đêm chủ nhật trằn trọc mãi không ngủ được, phần vì lạ chỗ, phần thì mừng, mai được gặp mặt chồng sau nhiều năm xa cách, hơn nữa, xem Anh có mạnh khỏe hơn, sau lần được uống sữa tiên hay không? Nhiều ý nghĩ dồn dập tới.. .. .. Nhưng mệt qúa nên tôi cũng thiếp đi được một chút. Trong giấc ngủ, tôi nằm mơ thấy anh về báo tin cho tôi là anh đã chết.. .. .. .. Tôi chòang thức giấc, mà miệng còn ú ớ, như đang nói điều gì, tôi tỉnh dậy, lo buồn, khóc thành tiếng, làm thức giấc các chị cũng đến thăm chồng thăm con như tôi. Các chị biết chuyện, hùa vào an ủi, thôi, sinh dữ tử lành, yên tâm ngủ đi, rồi mai thế nào cũng được gặp, tôi cũng tự an ủi mình như thế.
Hôm sau, mờ mờ sáng, tôi đã cùng chị em nấu cơm cho chồng, cho con một bưã, mong được ấm lòng cả hai. Trời sáng hẳn, qua màn sương mỏng, từ cao nhìn xuống, tôi thấy từng lớp người lũ lượt theo từng tóan đi lao động. Tôi như kẻ mộng du, như có ai xô đẩy sau lưng tôi, tôi chạy ào xuống chân núi, nơi cấm những thân nhân tù cải tạo đến gần, tôi thấy, toán 1, rồi tóan 2, rồi tóan 3 .. .. Tôi chợt nghe tiếng gọi: ”Chị Chung.. .. à .. .. Chị Minh” và tiếp theo có tiếng người la to: ”Anh Chung chết rồi”. Tôi ngã xuống và không còn biết gì nữa.

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình bị trói chặt tay chân vào một chiếc chõng tre, một người y tá đang chích thuốc cho tôi. Tôi nghe kể lại, tôi đã bị ngất xỉu hơn một giờ đồng hồ, họ phải khiêng tôi lên từ chân núi, họ phải trói tôi lại vì sợ tôi vật vã, làm gãy kim chích. Tôi nói, tôi không sao, cởi trói cho tôi.
Sau cơn chóang qúa đau đến dại người, tôi trở nên bình tĩnh lạ thường, bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn sợ cho sự bình tĩnh cuả tôi lúc đó, miệng tôi luôn lẩm bẩm: ”Anh linh thiêng đến thế sao?” Khi nhớ lại giấc mơ đêm qua.
Tôi được gặp trại trưởng, tôi yêu cầu gì, họ cũng chấp thuận. Tôi xin được gặp bạn bè thân của chồng tôi, trao lại cho các anh hơn 120 kg qùa tôi mang đến cho chồng, tôi nói với các Anh rằng, ai cần gì thì lấy thức đó, rồi thư về cho vợ con, trả tiền lại cho tôi sau, phải nói thế các Anh mới chịu nhận, thực trong lòng tôi thương các Anh như thương chồng mình vậy.
Sau đó, cán bộ trại mang đến cho tôi một xách tay, bên trong không có gì khác hơn ngòai một bộ bà ba đen đã bạc mầu.
Họ cho tôi một chén cơm hẩm, còn hôi mùi mốc, trên có một qủa trứng luộc, để mang ra mộ Anh, tôi đi như một xác không hồn, mắt mở căng như tóat ra nỗi căm hờn, phẫn uất, nhưng nào nhìn thấy gì phiá trước, bước thấp, bước cao, theo hai người diù tôi đi.
Tôi không thể chết bên mộ chồng, vì ở nơi xa kia, còn có bầy con thơ đang chờ mẹ về, kể chuyện đi thăm bố.

Vài tháng sau, tôi nhận được hai gói qùa trả lại với hàng chữ: ”Người nhận đã chết, trại yêu cầu hoàn lại”. Ra bưu điện nhận lại hai gói qùa, tới bưã ăn, nhìn bốn đứa con ngồi ăn ngon lành, những món qùa trả lại, vì bố các cháu không còn cần nữa, mắt tôi lại một lần mờ lệ thương thân.
Vài năm sau, tôi dời mộ chồng về Saigon, trong ngày bốc mộ Anh, tôi được vài người bạn tù của Anh giúp đỡ, một trong các Anh lấy lên từ dưới mộ, đưa cho tôi một kỷ vật, do chính chồng tôi làm ở trong tù, nó được chồng tôi làm từ những sợi giây kẽm nhỏ, thành sợi giây chuyền, với chiếc mặt nhựa kính máy bay, có khắc hình hai đứa đứng cạnh nhau. Anh đã dấu diếm từng ngày để không bị cán bộ CS tịch thu, các bạn Anh đã tìm thấy trong khi liệm xác Anh, họ đã chôn nó cùng Anh trong huyệt lạnh.
Hơn một năm, sau ngày Anh mất, phường khóm đưa đến cho tôi một biên bản ”Phạm nhân chết”, trong đó ghi rõ tội ác của chồng tôi can tội: ”Giảng viên tâm lý chiến, xã hội học, Trường Võ Bi Quốc Gia Dalat. Án phạt: 3 năm tập trung cải tạo”. Nhưng khi chồng tôi chết, Anh đã bị tù đúng 3 năm 7 tháng. Bẩy tháng oan nghiệt giết chết chồng tôi.

Đến năm 1994 tôi được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO vì có chồng chết trong khi bị tập trung cải tạo.
Nay các con tôi đã khôn lớn, đã thành đạt, và các cháu rất hiếu thảo. Tôi đã và luôn tự nhủ, phải đứng thẳng làm nơi nương tựa vững chắc cho chồng cho con, trách nhiệm phần nào đã nhẹ gánh.
Em đã sống vì anh, thay anh nuôi dậy con chúng ta, tôi vẫn thì thầm cùng anh như thế, ”Hãy đợi em đến cùng anh”. Vâng, tôi ước mong được sớm ra đi bình yên như thế, để được xum họp với chồng tôi, để nối lại gánh hạnh phúc của chúng tôi bị gẫy sau 4 năm 5 tháng chung sống. Tôi chắc Anh có nhiều nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đến cùng Anh.

Ý Cơ

Sunday, April 19, 2009

Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến

Tuyến Thép Xuân Lộc


LTS: Trận chiến Xuân Lộc trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh VN đã là nét son trong quân sử QLVNCH và cũng là nét son cho tinh thần chiến đấu của một thế hệ thanh niên Miền Nam không chấp nhận CS. Trận chiến ấy đã được nhìn như thế nào về phiá ta và phía bạn cũng như phía địch CS.

Trang Cựu Chiến Binh QLVNCH/NV xin được trích đăng lại một phần trong tập tài liệu Tuyến Thép Xuân Lộc của cựu Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Trưởng Hành Quân trong trận chiến này.

Trong quyển sách vinh danh QLVNCH với tựa đề “Cái Chết của Nam Việt-Nam”, ông Phạm Kim Vinh đã chuyển ngữ lời nhận xét của 4 nhà trí thức ngoại quốc về mặt trận Xuân Lộc như sau:

A.Dawson, trưởng phòng Thông Tin của hãng UPI tại Sàigòn đã viết: “Lúc địch quân bắn 3000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó ! Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xã. Hỏa lực của 2 bên đều rất dữ dội. Trong vài giờ đầu, SĐ18BB phải rút bỏ 1 phần thị xã, nhưng sau đó đã phản công để chiếm lại; đến tối thì SĐ6/CSBV phải gom quân và triệt thoái để chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công khác ! Trận đánh kéo dài từ ngày nầy qua ngày nọ và cứ thế... Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh 1 trận quyết liệt mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được ? CS tung vào Xuân Lộc 1 SĐ nữa ! SĐ18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10/4/1975, Cộng quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12/4/1975, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào ? Hai Trung Đoàn của Quân Đội Nam/Việt-Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dữ dội hơn ! Thêm 3000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc xé nát mọi vật ! SĐ18BB vẫn đứng vững ! Tướng Đảo ở lại bên cạnh các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu !

D.Warner ký giả kỳ cựu của Úc đã viết: “Với 3 SĐ6+7+341/CSBV, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc 1 cách dễ dàng nhưng ông đã lầm ! SĐ18BB chưa bao giờ được xem là 1 SĐ thiện chiến của miền Nam/Việt-Nam, trái lại có lần SĐ nầy còn được xem là SĐ tệ nhứt ! Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt-Nam, SĐ nầy đã chiến đấu 1 cách dũng cảm; không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày ! Tuy nhiên không phải chỉ có SĐ18BB đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng mà còn nhiều đơn vị khác của QLVNCH như Giáo sư người Mỹ...A.T.Bouscaren đã viết: “Mặc dầu thiếu thốn đủ mọi thứ cần thiết để chiến đấu nhưng các SĐ5+18+25/VNCH và các SĐ/ND+TQLC+BĐQ v.v... đã chiến đấu thật hay ! Tại Gò dầu Hạ, đại bác 105+155 ly của Quân Đội Nam/Việt-Nam chỉ được sử dụng vài viên cho mỗi khẩu; các chiến đấu cơ Không Quân không thể yểm trợ liên tục vì thiếu nhiên liệu; Bộ Binh do đó đã phải tự lực chiến đấu v.v...

Và,P.Darcourt (Sử gia người Pháp) đã nhận xét: “Cộng quân có đơn vị phòng không hùng mạnh trên xe kéo; các phi công Nam/Việt-Nam phải đối diện với nguy hiểm khi yểm trợ cho quân bạn dưới đất ! Tại Xuân Lộc quân bạn dưới đất đã sáp chiến với địch và PB/CSBV đã tác xạ hơn 6000 trái đạn đại bác liên tiếp trong 2 ngày vào các vị trí của SĐ18BB; liên lạc vô tuyến với BCH của Tướng Đảo lúc đầu bị gián đoạn rồi sau đó được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhứt định không lui mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ !

Tướng Văn Tiến Dũng CSBV, Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ Chí Minh đã phải ngạc nhiên viết trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” (nay đã bị CS cho thu hồi không phổ biến) khi lực lượng QĐ4/CSBV phải dừng lại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) : “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc của QĐ4/CSBV lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch ! Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh nầy không phải chỉ trong phạm vi của Xuân Lộc nữa rồi ? Nó liên quan đến việc “mất hay còn của Ngụy quyền SÀIGÒN, đến việc “giẫy chết” của chế độ Thiệu ? Việc tổ chức, chỉ huy và tiến hành các cuộc chiến đấu của ta không thể làm như cũ được nữa ? Cách đánh cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với tình hình lúc đó ?”

Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức Bộ Chính Trị/Trung Ương Đảng CSVN cũng phải thú nhận “Sau 2 làn B2(Chiến trường miền nam) xin thêm quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị Miền cũng vừa kết thúc ! Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc ! Tôi có tham gia với anh Dũng và các đồng chí rằng: “Vội gì mà phải đánh Xuân Lộc vào lúc nầy ?” Hiện nay ta đang điều quân và các cánh quân cũng đang trên đường hành quân gấp ! Đánh SÀIGÒN thì các nơi khác tự tan rã và tạo điều kiện rất thuận lợi cho chúng ta đánh địch ! Anh Văn Tiến Dũng nói: “Tôi cũng thấy như vậy ! Nhưng anh em đã quyết định rồi ! Tôi mới vào chưa nắm được cụ thể tình hình ! Thôi cứ để anh em đánh ! Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, bị thiệt hại nặng không giải quyết được chiến trường ? Ngoài ra còn có bọn địch ngoan cố chống cự như trận đánh vào Đồng Dù và Nước Trong là các trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta không phải là ít ? Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc ? Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào, chưa rõ hết tình hình, cứ để các đồng chí đánh vậy ! Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra ! Thực tế diễn biến chiến đấu sau đó, chứng tỏ việc đánh Xuân Lộc lúc ấy là chưa cần thiết !”

Robert D.Heinl (Ký giả người Mỹ) đã viết: “Dầu sao thì các SĐ của Nam/Việt-Nam cũng đã chiến đấu tuyệt vời năm 1972 và bị đối phương tấn công tới tấp để rồi 3 năm sau, đối phương mới đánh bại được quân của Nam/Việt-Nam. Chắc chắn là tinh thần của Quân Lực Nam/Việt-Nam suy sụp vì cái ý nghĩ bị bỏ rơi và sự sụp đổ xảy ra là vì Quân đội miền Bắc được 2 đại cường quốc CS giúp đỡ tận tình để trắng trợn xâm chiếm miền Nam/Việt-Nam !” (“All Quiet On The Eastern Front” do Devin-Aldair xuất bản năm 1977, trang 47).

Tướng Westmoreland. Trong cuốn “All Quiet On The Eastern Front” do nhà Devin-Aldair xuất bản 1977, trang 47, tác giả A.T.Bouscaren trích dẫn lời truy điệu của Tướng Westmoreland nguyên Tư lệnh các lực lượng Đồng Minh tham chiến tại Việt-Nam về cái chết của Nam/Việt-Nam như sau: “Sau những hy sinh chồng chất kéo dài suốt nhiều năm, lẽ ra Nam/Việt-Nam xứng đáng nhận được cái chết cao cả hơn thế ? Sự thất bại nầy do 1 số nguyên nhân gây ra như sau: “Thỏa hiệp ngưng bắn để mặc cho quân Bắc Việt hiện diện tại Nam/Việt-Nam; sự sa sút tinh thần của Nam/Việt-Nam khi biết rằng bị bỏ rơi trong khi quân phía Bắc Việt được tiếp tế đều đều bởi 2 cường quốc Cộng Sản ? Yếu tố then chốt là nước Mỹ không hành động gì ?”

Tướng Pháp hồi hưu “Vanuxem” Tư lệnh mặt trận Bầøn Yên Nhân (gần Hànội mùa Xuân năm 1954 đẫm máu) không đầy 6 tháng, sau khi Việt-Nam sụp đổ đã ghi rõ trong cuốn “La Deuxieme Mort du Việt-Nam” rằng: “Trong chiến tranh Việt-Nam, cứ mỗi 8 phút lại có 1 chiến sĩ Quốc Gia tử trận và sau khi “thỏa hiệp ngưng bắn Paris” ra đời (27/1/1973) Nam/Việt-Nam hoàn toàn chiến đấu một mình để mỗi tháng phải đặt mua 3000 quan tài chôn tử sĩ ? Số thương vong năm 1974 đã vượt xa số thương vong năm 1968 (Guenter Lewy” America in Viet Nam, trang 207). Sau khi nêu những con số rùng rợn trên đây. Tướng Vanuxem đặt câu hỏi: “tại sao vẫn còn những kẻ cứ nằng nặc la lối rằng Nam/Việt-Nam không chịu chiến đấu ?”

Tướng Vanuxem còn nói thêm: “Chỉ riêng cho năm 1974, Bắc Việt nhận được đồ tiếp tế trong số đó có 1500 xe tăng loại T.54+T.55+T.59+60 đại bác hạng nặng + gần 2000 phi đạn SAM + hơn 240.000 tấn đạn và 1 số tàu phóng ngữ lôi”.

Tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh QĐ4/CSBV tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) đã thú nhận (18): “Các báo cáo cho biết các mũi tiến triển tốt, ta chiếm được nhiều mục tiêu ! Nhưng vào cuối ngày 10/4/1975 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng ! Địch phản kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt hại nặng ? Máy bay địch đánh phá ác liệt có tính chất hủy diệt mục tiêu chúng đã mất ? Quân Đoàn đã kêu thiếu đạn các loại nhứt là SĐ6+SD341 riêng SD7 thì thiếu quân số; tình hình rất gay go ! Các đồng chí Phạm Hùng + Văn tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ, rất lo lắng khi thấy địch càng tập trung thêm lực lượng và ta có vẻ khựng lại ? Chiếm mục tiêu không nhanh gọn ? Hoặc bị đẩy lui ?”

Đại Tá William E.Le Gro, nhân chứng giờ hấp hối của Nam/Việt-Nam cuối tháng 4 năm 1975. Ông ta phục vụ tại Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân/Mỹ đã kết luận: “Lấy từng đơn vị so với từng đơn vị; lấy từng cá nhân so với cá nhân, thì các lực lượng của Nam/Việt-Nam liên tiếp tỏ ra trên chân các lực lượng đối phương. Nhưng sự lãnh đạo Quân sự và Dân sự cấp cao nhứt của Nam/Việt-Nam không có, cũng như không có sự yểm trợ tinh thần và vật chất kiên trì của Mỹ”

Leslie Gelb, ngày 20/3/1975 trên tờ báo New York Times đã nhận định: “Người ta đồng ý rằng trong 2 năm qua, Nam/Việt-Nam đã phải chết nhiều hơn trước để bù lấp sự cắt giảm hỏa lực yểm trợ. Các cấp chỉ huy trẻ và Hạ sĩ quan chết nhiều nên đã đưa tới nạn thiếu hụt trầm trọng về cấp chỉ huy. Sự thiếu hụt ấy làm cho tinh thần binh sĩ sa sút thêm. Quân lực Nam/Việt-Nam càng ngày càng tức giận vì cái cảm tưởng bị Đồng Minh Mỹ đã bỏ rơi rồi lại còn không hề phản ứng trước các sự vi phạm trắng trợn của Hànội sau thỏa hiệp ngưng bắn 27/1/1973. Quốc hội và báo chí Mỹ gia tăng sự nhục mạ Nam/Việt-Nam khi cứ đều đều kết tội Nam/Việt-Nam là không chiến đấu, là không đáng được giúp đỡ. Tất cả những điều nầy khiến cho Nam/Việt-Nam cảm thấy bị phản bội và thấy ý chí chiến đấu suy yếu”.

Solzhenitsyn, văn hào Nga lưu vong, gởi cho thế giới tự do lời truy điệu trong cuốn sách mới nhứt của ông có tựa đề: “Lời cảnh cáo gởi Tây Phương”. Đặc biệt trong cuốn sách nầy, ông ta gay gắt lên án thế giới vì đã bất công trong sự xét đoán ý chí của Nam/Việt-Nam. Ông ta viết: “Sau sự sụp đổ của Nam/Việt-Nam năm 1975, ta thường được nghe những lời giải thích chúng ta không thể bảo vệ những kẻ không cố ý và không có khả năng tự bảo vệ với tài nguyên nhân lực của chính mình; chúng ta không nên bảo vệ những kẻ không có nền dân chủ đầy đủ”. Quả thật đó là những lời giải thích kỳ quái. Thế giới đã làm gì khi Cộng sản miền Bắc trắng trợn xâm lăng Nam/Việt-Nam.

Bùi Diễm nguyên Đại sứ lưu động của VNCH, đã ghi lại cảm nghĩ như sau: “Lực lượng Bắc Việt với số lượng quân cụ to tát của Xô Viết và Trung Hoa đã phô bày ra khi từng đoàn quân CSBV tiến theo các quốc lộ chính ! Điều kiện rất thuận lợi cho các cuộc “không tập”.

Chỉ cần sự can thiệp của Không quân Mỹ (sự can thiệp mà Nixon và Kissinger đã hết lòng hứa hẹn với “Tổng Thống THIỆU” năm 1973) để tiêu diệt các đoàn quân nầy, làm tê liệt khả năng tác chiến của CSBV trong nhiều năm ? Tại Xuân Lộc (Long Khánh) chu vi phòng thủ xa SÀIGÒN, SĐ18BB của miền Nam/Việt Nam đã đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của địch quân !

Sự kiện xảy ra tại miền Nam/Việt-Nam, hoàn toàn tùy thuộc vào Quốc Hội sắp tái nhóm ! Một Quốc Hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ 1 Đồng Minh có quá nhiều khuyết điểm. Tại Hoa Thạnh Đốn, tôi cũng còn chút hy vọng mong manh có được từ phái đoàn của Tướng Weyand (đang công tác tại Việt-Nam) nhưng hy vọng trên lại vụt tắt ngay ngày 11/4/1975 (2 ngày sau khi phái đoàn Weyand trở lại My)õ, được biết “đề nghị chuẩn chi viện trợ khẩn cấp cho VNCH, bị bác bỏ !” Việc phủ quyết sau cùng đã đánh dấu việc bỏ rơi Đồng Minh của Huê Kỳ. Những binh sĩ đang chiến đấu can trường tại Xuân Lộc (Long Khánh) cũng như hàng triệu người Việt-Nam tị nạn đang trốn chạy Cộng Sản đều không biết rằng “án tử hình” của họ đã được “tuyên bố” trên đồi Capitol.

Cảm tưởng của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) thay cho lời kết của bài viết này.

“Chiến thắng Xuân Lộc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa không phải là không chịu đánh mà rất chịu đánh ! Anh em chiến sĩ không bao giờ chấp nhận một sự bại trận dù trong tình thế tuyệt vọng; họ đã chứng tỏ hùng hồn cho thế giới thấy là họ đã đánh một trận “tuyệt vời” như thế nào tại Xuân Lộc !

Cuộc chiến đấu của QLVNCH là một cuộc chiến đấu quá chính đáng và cần thiết ! Chính nhờ cuộc chiến đấu nầy mà miền Nam/Việt-Nam đã được sống thanh bình, ấm no trong vòng hơn 20 năm qua, nhân phẩm cho con người được tôn trọng !

Trước hết, tôi muốn nói đến tâm hồn cao thượng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa ! Họ hy sinh cho người khác sống ! Họ sẵn sàng hy sinh sanh mạng mà họ không oán trách, không hận thù cả địch, cả những cấp lãnh đạo chỉ huy đã không chăm sóc đúng mức !

QLVNCH cao cả lắm ! đời đời chúng ta hãy ngẩng mặt lên. Chúng ta phải thấy được sự kiêu hùng của QLVNCH !

Ở thế hệ của chúng tôi tri ân những người đã hy sinh; các em thanh niên là thế hệ kế tiếp cũng biết ơn họ; sau nầy những thế hệ con em chúng ta cũng sẽ nhớ ơn họ mãi mãi ! Đó là những người con yêu của Tổ Quốc chúng ta !

Trời VIỆT NAM, đất VIỆT NAM cũng đồng tình với chúng ta !!!

HỨA YẾN LẾN

(Trích trong tập tài liệu “Tuyến Thép Xuân Lộc” của Cựu Đại Tá Tham Mưu Trưởng Hành Quân Sư Đoàn 18 Bộ Binh).

Saturday, April 18, 2009

Đêm Nhớ Về Thời Chinh Chiến / Trong Nỗi Khốn Cùng




Nguyễn Thế Thăng

Suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Đông 1975 là một cái đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam VN vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9/Long Thành, Biên Hòa (Ngã Ba Thái Lan) trong một dãy nhà tôn vách gỗ mà không hề có lấy một tấm mền mỏng che thân! Ban ngày ngủ, ban đêm phải thức trắng ngồi xoa bóp liên tục khắp cả người cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong cái lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu. Chính từ chuỗi ngày đêm nơi tầng cuối địa ngục này lại trở thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.

Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài.. Khoảng đầu tháng 6/75, tôi lên Trà Cổ (Hố Nai, Biên Hòa) rồi từ đó vào rừng gia nhập Liên Đoàn 5 của Đại Úy Lê Đình Thạch (trước đây thuộc Sư Đoàn 5/BB) gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Động, Cảnh Sát, Địa Phương Quân.. Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của Việt cộng vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). Việt cộng tràn ra thành phố, bỏ ngỏ mật khu của họ lại với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chỉ còn được dùng để đánh cá vì hệ thống kích hoả bị hư đến hơn 60%. Chúng tôi thường tấn công những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ... Trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho đem bỏ từng bao trước cửa mỗi nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thực phẩm khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh Việt cộng để lấy AK, B40... Đến khoảng tháng 9/75, lực lượng chúng tôi đã có khoảng 80 người. Biết không thể chống cự nổi bọn cộng sản đang say men chiến thắng, chúng tôi dự trù sẽ đi đường bộ băng ngang Kampuchia đến vùng biên giới Kampuchia-Thái Lan để dưỡng quân rồi tùy cơ ứng biến. Trong vùng còn có một toán thuộc Liên Đoàn Biệt Kích 81 (trước 30/4/75) hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sát nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam (Thiếu Tá Nguyễn Phước Trường) chỉ huy. Có một linh mục tham gia tên Trần Học Hiệu (LM Hiệu sau này đã bị giết chết trong tù). Khoảng tháng 10/75, VC đưa hai trung đoàn có bốn chiến xa yểm trợ tấn công đơn vị chúng tôi và đơn vị của Thiếu Tá Tam. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ 3 chiến hữu, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh xử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn bốn ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng. Ba người theo tôi đi về Phước Long. Đến 10g sáng (?), chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu (?), một trung đội cộng sản nằm dài theo bụi tre cách khoảng mười-lăm, hai-mươi thước bắn xối xả vào chúng tôi đang di chuyển giữa đồng trống, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, một viên AK xuyên qua đầu gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại) làm tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh ba thuộc cấp thoát thân. Chuẩn Uý Nguyễn Thạch Điệp nhất định liều chết để lôi tôi đi.. Tôi hét lên, Điệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chỉa súng vào người Điệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Điệp rớm nước mắt "dạ" rồi vọt liền. Cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của địch, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né qua một bên, bị trúng vào gáy rồi ngất đi. Hình như một tên chỉa AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên.. Đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về. Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng vải nylon, máu me ướt sũng lưng, bọn VC thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đang làm rẫy, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu.. Giê-Su Ma!!.

Toán cộng sản đưa tôi về Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa), nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc (bị pháo kích sập, chỉ còn bốn bức tường với các cửa đóng kín bằng những tấm ván lớn chéo nhau). Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi. Đêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Vết thương đau nhức khủng khiếp, máu vẫn tiếp tục loang theo nước mưa. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi bô đội xin chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để núp. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát. Bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì thú thật đau quá, không đủ can đảm. Có lẽ phải nhờ Việt cộng giết giùm thôi. Tôi bắt đầu la lên chửi rủa cộng sản, chửi đích danh Hồ Chí Minh khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não cộng sản lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như....Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ... Rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Khi tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người gần như trần truồng được đắp lại bằng....một tấm tôn! Ngoài kia gió vẫn rít gào, trời vẫn vô tình mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng....

Sáng hôm sau Việt cộng triệu tập một cuộc mít-tinh dân chúng Huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng hơn bốn-mươi xác những "tên ác ôn đã đền tội". Mười một người bị bắt (tất cả đều bị thương), số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng người, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ "tội phạm". Lúc đó đối với tôi hai tiếng "tử hình" nghe không còn ghê rợn nữa mà thật bình thường vì đó chính là điều tôi mong đợi và chấp nhận như một sòng phẳng tất nhiên.

Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ đội chánh quy từ Miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ, nhưng những tay "giải phóng – Cộng sản người miền Nam- pnn" thì thật tàn bạo.. Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến sáu, bảy tiếng.. Tôi đã nhẹ nhàng thanh thoát, lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại rất sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nhớ lại từng chi tiết nhỏ cả quãng đời đã qua từ khi nhập thế. Những điểm tốt cùng với bao nhiêu điều xấu. Vui vẻ, hài lòng, thảnh thơi trước những việc thiện. Hối hận, ăn năn, dằn vặt, đau khổ trước những điều bất thiện. Có lẽ đó là "Toà Phán Xét" theo giáo lý đạo Thiên Chúa. Có thể đó chính là Niết Bàn và Địa Ngục theo Phật Giáo chăng? Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Nó chỉ là một phương tiện, một địa chỉ tạm trú của một trong vô lượng vô số kiếp mà thôi. Quá đủ rồi. Tôi đã thoát ra và ngắm nhìn cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ. Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: Các anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề sẽ không bao giờ oán hận các anh, tôi hứa sẽ mang ơn nếu các anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này. Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay cán bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn.. Mắt anh một nhắm, một mở. Miệng anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng.. Tay cán bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Tôi cố tình tìm nhưng không nhìn thấy xác Chuẩn Úy Vũ Thế Cường là anh họ của tôi (Anh ruột mẹ tôi là Vũ Thế Nghiệp tức Nhà Báo Thần Phong hai năm sau đó bị xử bắn tại Thủ Đức). Vĩnh biệt Các Anh và hẹn ngày gặp lại, tôi khẽ thì thầm.

Quay trở về Mùa Đông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Trại nằm ngay tại Ngã Ba Thái Lan gồm nhiều dãy nhà tôn vách ván nơi đang tập trung học tập các cựu viên chức hành chánh VNCH. Chúng tôi khoảng năm-mươi người gồm nhiều thành phần bị nhốt trong dãy nhà ngang cuối cùng có hàng rào kẽm gai quây kín. Tất cả tù nhân bị cùm hai chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân. Cùng trại có môt người lớn tuổi tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ là sĩ quan cao cấp VNCH đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi Cụ có liên hệ gì với với một người bạn cùng khoá là Phan Xuân Mai không.. Cụ chỉ mỉm cười: Con cháu trong nhà thôi. Bà Minh Đăng (Không biết tên thật, chủ đại bài gạo Minh Đăng, Biên Hoà) người phụ nữ duy nhất bị bắt vì tiếp tế nguyên một xe gạo vào rừng, đã dùng sợi dây xích làm xâu chuỗi , không biết bà đã đọc bao nhiêu kinh mà sợi xích sáng bóng như thép ròng vậy. Nguyễn Văn Chi, người bị đánh hội đồng nhiều nhất trong suốt hơn hai tháng vì bị nghi ngờ là Thiếu Úy Trần Văn Chi (Th/Úy Chi bị một viên đạn xuyên qua vai phải, trốn thoát, hiện đang ở San Jose California), Ngô Đình Chiến bị bắn xuyên qua bả vai trái, tay trái bị liệt. Nguyễn Văn Cân bị ghẻ toàn thân chỉ trừ hai con mắt, Nguyễn Y người Bình Định (trông giống hệt hình Quang Trung Đại Đế), Trịnh Văn Thương bị bắn xuyên qua đùi, Phạm Văn Thận với chiếc jacket với hàng chục lỗ đạn....Cũng trong trại này có một người lính cũ của tôi, Đào Văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, anh nhận ra tôi nhưng không dám nói, chỉ ra hiệu. Tôi thì vẫn..Muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một thân hữu đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với "thịt cọp". Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp. Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ: Nước cá kho tôi cho ông có ngon không? Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng. Lành thật thà: Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả kí-lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho ông xài đỡ. Ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe ông!

Rồi cũng qua một mùa Đông. Một mùa Đông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại Xã Ngãi Giao, Quận Đức Thạnh (Phước Tuy/Bà Rịa). Chỉ cùm hai chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn phải đeo xiềng vô một chân để đi lao động (mục đích giữ tù không chạy trốn). Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đoạn đường gần làng Bình Giả, tôi lẫm bẩm hát bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Đức Quang) thật thấm thía:..Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người, nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi.. Nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi.. Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian! Trung Úy Nguyễn Văn Tài lúc nào cũng chỉ một câu vọng cổ trong Chuyện tình Lan và Điệp: Em tên là Nguyễn Thị Lan(g), xác còn nằm đó mà hồn tan(g) lâu rồi!! Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công suốt đêm. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Đồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà như đang khiêng hai con heo. Đích thân thằng trại trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cm, dài khoảng 30-40cm, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Đồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại kêu Trời !!!! Cố bịt miệng để khỏi la thành tiếng. Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thỏng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và ba người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi được đặt nằm trên tấm gỗ dài cỡ 1thước 8, rộng 25 phân, hai cánh tay đong đưa theo nhịp bước, nhất là theo cái cà thọt khấp khểnh chân què của tôi. Hiển máu vẫn còn chảy toong toong trên đường. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng, hai mắt lồi lên, mặt sưng tím bầm. Đất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái cuốc xẻng cũ sứt sẹo. Trung Úy Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất.. Mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cố gắng mãi đến tận mặt trời lặn cũng chỉ đào xuống được khoảng bảy tấc!! Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Xếp vài cục đá xung quanh đầu rồi lấp đất nhè nhẹ như sợ hai đứa đau. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, dưới ánh đèn heo hắt, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: Hiển ơi, thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát.…Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Hình như có tiếng người trở mình bên cạnh.. Tôi xoay qua: Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Đồng Quang Nhường, hai anh em như đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: Chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa anh ra Bắc nhưng anh đừng lo (Nhường lúc nào cũng lạc quan) mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, miền Bắc chính là xứ người, không phải xứ của anh em mình, nhưng cái thân tàn tật tù tội trên đất cáo Hồ thì vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh, chơ vơ. Thì ra đó chỉ là một giấc mộng.

Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh: Tha thụ hình, cho phép đi cải tạo. Tôi bị chuyển qua Trại Lê Lợi. Nơi đây tuy không bị còn bị cùm hay xiềng nhưng ở trong khu cách ly. Bên kia hàng rào nhìn thấy Ngô Bá Lai, Nguyễn Hữu Tạo và một số rất đông bạn bè khác, nhận ra nhau trong ánh mắt thật ngỡ ngàng, tủi nhục, chua xót, đắng cay. Ngô Bá Lai nháy mắt bảo tôi ra nhà vệ sinh, hai đứa trật quần ra ngồi bên nhau trao đổi tin tức. Lai ân cần hỏi tôi thiếu thốn gì không. Một tháng sau chuyển qua trại Long Giao. Tôi vào trại với hai cổ tay và cánh tay bị trói chặt ra sau lưng bằng giây điện thoại, hai chân trần với vỏn vẹn một bộ đồ trên người và một túi vải nhỏ đeo trước ngực. Phạm Văn Bông nhận tôi về tổ, trong cùng tổ có Trần Ngọc Hoàn; cùng đội, cùng trại có Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Nhự, Chung Gia Phong, Bùi Đức Hùng, Nguyễn Thành An, Đặng Kim Cương, Trương Hội, Phạm Đức Thịnh... Trại bên có Nguyễn Đức Phương. Bạn bè chia sẻ cho tôi thật nhiều đồ dùng và thực phẩm. Phạm Tuế tặng tôi một chiếc quần treillis còn khá mới.

Ngày 23/5/1977, chuyển ra miền Bắc trên chuyến tàu Sông Hương cập bến Hải Phòng. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu phân bò, tôi cứ mãi miên man nghĩ về từng chiến hữu trong chiến khu, nghĩ thương hai thằng em bị thảm sát trong tù, về thân phận mình, về dân tộc và quê hương cơn quốc nạn.. Đôi mắt cay cay chiều xót xa ....
Người Lính Nguyễn Thế Thăng

NHỚ NGƯỜI CHIẾN SĨ VÔ DANH / NHA KỸ THUẬT


Người lính trẻ oai hùng xông trận
Đi truy kích đánh đuổi quân thù
Anh bất chấp lặn suối trèo non
Xác thân anh xây nền Dân chủ

Dưới bầu trời mịt mù bom đạn
Anh quay về chẳng vẹn tấm thân
Kẻ mất tích, kẻ thân vạn mảnh
Anh còn gì “ CHIẾN SĨ VÔ DANH ”

Mộ của Anh nằm đâu năm tháng
Hồn Chiến sĩ Anh mãi lang thang
Hậu thế ai chăng…còn tưởng nhớ
Ta thắp nén hương kính xương tàn …

Cao Trí Dũng



THƯƠNG NGỪƠI CHIẾN SĨ !!! Nha Kỹ Thuật

Họ lính trẻ oai hùng chiến trận ,
Vượt lằn tên chặn bước quân thù .
Sớm đầu NAM , tối BẮC lên non,
Thân xác đổ , làm nền dân chủ .

Trong chiến trận kinh hồn bom đạn ,
Kẻ quay về chẳng vẹn toàn thân .
Người mất tích thân chia vạn mảnh,
Chỉ còn chăng ,CHIẾN SĨ VÔ DANH .

Sương lạnh mồ hoang theo năm tháng ,
Mà hồn chiến sĩ vẫn lang thang.
AI người hậu thế ? còn tưởng nhớ !
Đốt nén hương cho mảnh xương tàn .

(Hồng Hãi )

Wednesday, April 15, 2009

Tuyết Rơi Giữa Sài Gòn


(Bút ký của một phóng viên hình ảnh Mỹ vê Tháng Tư 1975)

Tuyết Rơi Giữa Sài Gòn

Bút ký của một phóng viên hình ảnh Mỹ

Đôi lời vào chuyện: - Tháng Tư năm 1975, Dirck Halstead ký hợp đồng trở lại với
tạp chí TIME MAGAZINE. Trước kia ông cũng đã làm việc cho tạp chí này từ mùa
xuân 1972. Rút kinh nghiệm quá trình công tác, Dirck Halstead yêu cầu TIME đừng
đưa ông đi chụp hình tổng thống Mỹ hoặc làm phóng sự chiến tranh, vì ông đã chán
ngấy những môi trường làm việc đó.

Thế nhưng "người muốn mà trời định" nên chi hai tuần sau khi ký hợp đồng, Dirck
Halstead lại phải lặn ngụp dưới hố nước trên quốc lộ 13 của Việt Nam để tránh né
đạn pháo của quân Bắc Việt. Nếu không thì đời tàn qua ngõ hẹp rồi! Dựa vào kinh
nghiệm và biệt tài của đương sự, tạp chí TIME cần có một người để theo dõi giai
đoạn gay cấn của một chiến trường. Việt Nam - một đất nước mà hơn hai mươi năm
qua, ông đã gắn bó sự nghiệp, với những thăng trầm nặng tính yêu thương và hờn
giận - đang trên đà sụp đổ. Nên chi, ghét của nào, trời trao của ấy, Dirck
Halstead đành phải mang máy ảnh trở lại Việt Nam.

Đoạn bút ký sau đây của Dirck Halstead chỉ ghi được mười ngày cuối cùng của Sài
Gòn - và đặc biệt trên cương vị của một phóng viên hình ảnh Mỹ - nhưng cũng cho
người Việt Nam chúng ta thấy được một khía cạnh khác của một đồng minh tháo chạy
trong ngày 30 tháng Tư lịch sử đó. Ký sự về "ngày tuyết rơi trắng xóa Sài Gòn",
Dirck Halstead định viết ra mấy lần nhưng không thành. Năm 2000, nhân dịp kỷ
niệm thứ hai mươi lăm ngày Sài Gòn tan hàng, ông mới ghi lại đuợc và đưa lên tờ
"báo-kỷ-thuật-số" (The Digital Journalist), do ông chủ trương và biên tập. Phần
lớn những hình ảnh kèm theo bút ký này do ông đích thân thực hiện.

******

Chương 1: Trở lại Paris của phương Đông

Ngày 20 tháng 4, 1975 - Sân bay Hong Kong
Tôi đang nửa tỉnh nửa say sau khi uống nhiều rượu ở khu hạng nhứt của chuyến bay
Pan Am, cất cánh từ New York, và gật gà gật gù vì chênh lệch giờ giấc. Đang nối
đuôi rồng rắn ở quầy vé Hàng không Việt Nam để lấy chỗ đi tiếp đến Sài Gòn, tôi
thấy có hàng chữ thông tin cho biết "Tất cả các chuyến bay đi Sài Gòn đều bị hủy
bỏ".

Bộ Sài Gòn đang bị phi cơ tấn công sao cà? Như vậy là nghĩa lý gì đây? Suốt cuộc
chiến tranh, Bắc Việt chẳng bao giờ có chuyến bay nào đến Sài Gòn. Một nhóm du
khách kỳ lạ, tôi chưa từng thấy bao giờ, đi lảng vảng quanh quày vé. Nào là
những chàng híp-pi nghiện ngập, với những cái nhìn kỳ quặc, nào là những người
lính đánh thuê với những túi ba lô đầy ấp, chẳng khi nào đưa qua kiểm soát, và
dĩ nhiên là những chuyên viên nhiếp ảnh, những ký giả mà tôi đã từng cùng nhau
xuôi ngược trên những con đường bụi bậm của chiến trường trong mấy năm qua.

Hóa ra là có mưu toan đảo chánh, một trong những biến cố đã từng xảy ra trong
mấy năm qua. Xế chiều hôm đó, chiếc Caravelle của hàng không Việt Nam mất lần
cao độ, trong ánh nắng chiều tà miền nhiệt đới, lướt qua các cánh đồng ruộng lúa
và những khúc sông quanh co của dòng Cữu Long, lung linh ánh sáng, khi chúng tôi
đáp xuống Sài Gòn-Tân Sơn Nhứt, một "Paris của phương Đông".

Ngày 21 tháng Tư - Sài Gòn, Nam Việt Nam
Tôi lại quên Sài Gòn nóng đến mức nào. Mới có bảy giờ sáng thôi, mà chiếc áo của
tôi đã bám dính lưng, khi tôi leo những bậc thang lên văn phòng của tạp chí
TIME/LIFE, nằm trong khách sạn Continental Palace. Mùi thơm của phở mới nấu, món
ăn có thể được dọn ra cho ba bửa trong ngày của người Việt Nam, làm tôi nghẹt
mũi. Nó làm cho tôi sực nhớ lại rằng tôi vẫn quyến luyến địa điểm này. Tôi cảm
thấy như ba năm đã qua - từ lúc tôi rời nhiệm sở ở đây tới bây giờ - đã tan
biến. Hết rồi, các ngài tổng thống..., những nàng kiều đẹp đẻ..., chỉ còn lại
Sài Gòn..., Sài Gòn muôn thuở.

Tôi cầm lấy chùm chìa khoá để ở chỗ dấu kín trong văn phòng rồi đi tới một gian
nhà nhỏ nằm sau tòa đại sứ Hoa Kỳ. Đẩy cửa bước vào, tôi trông thấy chiếc xe con
của phòng thông tấn, với bảng chữ "BAO CHI/PRESS" dán trên kính xe. Lục lọi ở
góc phòng, tôi gặp lại túi ba-lô đồ nghề cũ của tôi. Tôi trút tất cả ra nền nhà,
thấy có hai bộ quần áo đi rừng - còn nguyên bảng tên "Dirck Halstead, TIME/LIFE"
thêu trên túi áo - một đôi giày đi rừng, kiểu phát cho binh sĩ, có đế sắt để
chống chông nhọn, nhưng lại vô hiệu quả đối với mìn, một túi đựng máy ảnh - vẫn
còn cuộn phim hết hạn đã từ lâu, một túi nhỏ chứa thuốc trị rét, thuốc lọc nước,
một vài dụng cụ cứu thương, một chai tương ớt Tabasco và nửa chai rượu đế, vài
ba cái khăn mặt còn dính đất đỏ, một áo giáp và hai bình đựng nước và cuối cùng
là cái nón sắt cũ của tôi, vẫn còn những chữ "BAO CHI, UPI PHOTOS, HALSTEAD".
Tôi không còn nhớ đã lượm cái nón sắt đó ở đâu. Chắc là nhặt được trong một trận
đánh nào đó khá lâu rồi, đã quên đi. Tôi lại nghĩ thầm "Thì ra, cũng có được
niềm vui như khi trở về nhà!"

0900 giờ
Tôi đang ngồi nhâm nhi ly cà phê đá ở cái quán nằm trên góc đường Tự Do và theo
dõi Leon Daniel, tay ký giả kỳ cựu của UPI mà cũng là người bạn cũ. Leon nói nếu
tôi có muốn đi quan sát một vài vụ "bùm bùm" thì nên lấy máy ảnh theo. Tôi nhảy
theo Leon, rồi xe chạy thẳng hướng Biên Hòa, chừng mấy mươi cây số trên xa lộ.
Leon giải thích là từ lâu, Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không chịu cho ký giả tháp
tùng những cuộc hành quân nữa. Những phiên thuyết trình quân sự của họ không nói
lên được điều gì hết, nhưng vì bị báo chí Hoa Kỳ làm áp lực mãi nên Không quân
Việt Nam đã quyết định đưa một chuyến trực thăng chở báo chí đến cứ điểm cuối
cùng của lực lượng Nam Việt Nam.

Trong tháng vừa qua, những yếu điễm quan trọng của Nam Việt Nam đã tan tành gần
hết. Trước tiên là Ban Mê Thuột và Pleiku ở Cao nguyên Trung phần, rồi đến Huế,
làm cho gần như toàn bộ Thủy quân lục chiến Nam Việt Nam bị kẹt và bị tiêu diệt
ở bãi biển, trong khi chờ đợi di tản. Rồi Đà Nẳng, trước kia là căn cứ không
quân then chốt của Mỹ thời chiến tranh. Kế đó là Nha Trang. Và giờ đây, khi lực
lượng Bắc Việt đang hối hả di chuyển trên quốc lộ đổ xuống phía Nam thì họ gặp
trở ngại duy nhứt là xe bồn xăng của hậu cần không theo kịp để tiếp tế. Một tiểu
đoàn đã tơi tả của Sư đoàn 18 đang cố gắng hết sức mình để án ngữ cửa ngõ vào
Sài Gòn. Chỉ một tiểu đoàn mà đương cự lại sức mạnh phối hợp của bộ máy quân sự
Bắc Việt đang tuông tràn xuống phía Nam trên đường lộ...và đó chính là nơi mà
chúng tôi muốn đến.

11:00 giờ - Tiền đồn Xuân Lộc, phía Bắc Sài Gòn
Chiếc trực thăng Chinook, hơi cũ kỹ, dấy tung một dám bụi mù màu đất đỏ, khi đáp
xuống đường băng. Đâu đâu, chúng tôi cũng nhìn thấy người tỵ nạn, nhiều người
phải lội bộ hàng trăm cây số để đến nơi này, hy vọng tìm được một nơi yên ổn.
Những người chiến binh bị thương nằm trên cáng cứu thương kêu la, xin nước uống.
Hai chiếc xe Jeep chạy nhanh đến chỗ chúng tôi, tài xế hối chúng tôi lên nhanh
vì hỏa tiển đang bay trên đầu.

Trong lều chỉ huy, tướng Lê Minh Đảo, trong bộ quân phục tác chiến thẳng nếp,
đang vừa nói vừa quơ gậy chỉ huy. Nghe ông nói với ai đó qua điện thoại dã
chiến: "Chúng tôi sẽ giữ vững vị trí này." Khi thấy một đoàn ký giả, phóng viên
hình ảnh và toán truyền hình đông đảo kéo đến, ông ra dấu hiệu bằng bàn tay nắm
lại, ngón cái đưa lên. Để giải thích thêm, ông tướng nói rằng:"Tôi không cần
biết cộng sản đưa tới mấy sư đoàn. Tôi sẽ tiêu diệt hết."

Tướng Đảo mời chúng tôi bước ra khỏi lều để xem khoảng mươi tù binh Bắc Việt, bị
lột trần chỉ còn đồ lót, bị trói ké như heo chờ đem đi mổ thịt. Leon Daniel nói
với tướng Đảo là, theo tin tức đã được biết về sự chuyển quân của Bắc Việt thì
tình hình của ông kể như tuyệt vọng. Tướng Đảo nổi giận và nhấn mạnh rằng quân
của ông kiểm soát toàn bộ thị xã. Nhưng, cả Leon lẫn Peter Arnett của hãng thông
tấn AP cũng không đồng ý. Tướng Đảo quả quyết tình hình vẫn tốt đẹp nên ông để
cho chúng tôi tùy tiện. Càng có thêm đạn pháo bắn vào rừng cây xung quanh chúng
tôi. Một nhóm nhỏ trong chúng tôi bắt đầu thấy rằng đã đến lúc phải rút về.
Nhưng, ông tướng muốn chứng minh với Leon. Ông cho xe Jeep đến ra lịnh chở chúng
tôi đi xuống Xuân Lộc.

12:00 giờ - Thị xã Xuân Lộc
Nhóm nhỏ báo chí chúng tôi thận trọng di chuyển trên đường phố hoang vắng. Tướng
Đảo dẫn đầu, vung vẫy chiếc gậy chỉ huy. Ông gọi to bằng tiếng Việt Nam nhưng
chẳng nghe ai trả lời. Có những xác chết nằm trên đường đi. Khói như còn bốc lên
từ những xác cháy đen. Thành phố thật hỗn độn. Nhưng ngoài tiếng nói của tướng
Đảo, chẳng nghe được tiếng nào khác hết.

Lần hồi những chiếc nón sắt bắt đầu nổi lên từ những hố cá nhơn hai bên đường.
Những chiến sĩ biệt động quân trố mắt nhìn chúng tôi, cứ tưởng như mơ. Những
người khác thì chỉ nhìn một cách mông lung. Tôi bấm mấy pô hình. Nơi đây đang có
khó khăn, tình hình căng thẳng. Có tiếng súng nổ ở phía đầu đường trước mặt. Một
quân nhân hầu cận chạy đến ông tướng và đưa tay chỉ về phía rặng cây. Dường như
có bóng người mặc đồ đen chạy qua chạy lại trong hàng cây. Hay là tôi đang ảo
tưởng?

Bỗng dưng, tướng Đảo quyết định là đến lúc phải rời địa điểm. Những chiếc Jeep
của chúng tôi quày đầu trở lại và chạy nhanh đến bãi đáp trực thăng, trong khi
người lính đi theo liên lạc bằng vô tuyến. Hai chiếc Chinook đáp xuống tung cao
đám bụi đất đỏ. Khi chúng tôi bắt đầu chạy ra trực thăng, người lính, đã đi theo
chúng tôi từ thị xã, vượt qua chúng tôi rồi phóng điên cuồng ra Chinook. Hai
người lính Việt Nam đang khiêng một người bị thương, bỏ anh ta xuống. Tên lính
phía sau bỏ rơi người thương binh chạy đi. Leon Daniel điên tiết lên, rượt đuổi
theo tên lính kia và nện cho anh ta một quả đấm. Binh lính khác cũng chạy ùa ra
trực thăng đang bốc lên cao. Một vài người rớt lại vì trực thăng đã lên cao.
Không đầy một phút, vậy là xong hết. Hai chiếc trực thăng đã bay xa. Anh thương
binh rên rỉ. Nhiều người lính khác chỉa súng bắn theo trực thăng. Chúng tôi nhìn
quanh. Cả đoàn báo chí nhỏ nhen vẫn còn ở lại trên đường. Chúng tôi bắt đầu thấy
rằng cuộc chiến có vẻ gần như chấm dứt.

15:00 - Trên vùng trời Xuân Lộc
Chiếc Chinook, mà chúng tôi nghĩ rằng chẳng bao giờ thấy nó được nữa, bay bổng
lên cao, đưa chúng tôi ra khỏi Xuân Lộc. Rõ ràng là tướng Đảo cảm thấy có trách
nhiệm cho sự an toàn của chúng tôi. Ông đã gọi trực thăng chỉ huy của chính ông
để đưa chúng tôi đi, và dặn phải đáp xuống một nơi an toàn, không bị đám đông
quấy rầy. Khi chia tay, tướng Lê Minh Đảo, cặp mắt ứa lệ, nói với chúng tôi:
"Tôi không muốn quý vị chết cùng với tôi... nếu có cơ hội trở lại đây nữa thì
quý vị nên từ chối. Mong quý vị nói cho nhân dân Mỹ biết rằng quý vị đã trông
thấy sư đoàn 18 chiến đấu và chấp nhận cái chết như thế nào. Thôi quý vị hảy đi
đi!"

Chương 2 : Đưa tôi đi Mỹ nha ông

Ngày 21 tháng Tư - 08:00 giờ - Sài Gòn
Đại lộ Thống Nhứt, khoảng trước tòa đại sứ Hoa Kỳ, đông nghẹt người ta, ồn ào
hỗn độn. Hàng trăm người Việt Nam la ó và phe phẩy giấy tờ, tài liệu, bên ngoài
cái cổng sắt đồ sộ.

Cùng với nhiều nhiếp ảnh viên khác, tôi len lỏi tìm đường xuyên qua đám đông,
vừa đi vừa chụp hình. Thình lình, một chiếc xe Jeep và hai GMC quân cảnh đậu gấp
lại bên ngoài đám đông. Họ dàn hàng ngang dọc theo bờ tường sứ quán. Một tay cầm
khiên bằng mây đan, tay kia cầm dùi cui. Theo lịnh của một sĩ quan, họ tấn công
vào đám đông. Thiên hạ nháo nhào, té chồng lên nhau, đám đông lùi ra xa tuyến
rào cảng đang dàn ra ngang con đường.

Chúng tôi chui qua cổng để vào bên trong sứ quán mà bên trên có một chiếc trực
thăng màu trắng của Air America đang đậu. Đại sứ Graham Martin ăn mặc chỉnh tề,
áo vét cà vạt, đang đứng dưới tán lá cây me cổ thụ. Ông có vẻ lo âu về chuyện
quân Bắc Việt đang lảng vảng cách thủ đô Sài Gòn không đầy 50 cây số. Những
người có trách nhiệm trong báo giới ngoại quốc ở Sài Gòn có những vấn đề khẩn
cấp và riêng tư. Phần lớn tổ chức báo chí nào cũng có nhơn viên là người Việt
Nam làm việc cho họ đã lâu năm. Bây giờ, vấn đề là làm thế nào để đưa họ ra khỏi
Việt Nam.

Tại cuộc họp báo được triệu tập khẩn cấp, đại sứ Martin cũng không chịu đề cập
đến vấn đề đó. Một phóng viên đặt câu hỏi là đã có bao nhiệu nhơn viên Việt Nam
của sứ quán đã rời Sài Gòn? Ông đại sứ đáp rằng:"Theo chỗ ông biết thì, trong
vòng 24 giờ qua, mới có 444 nhân viên Mỹ lẫn Việt đã ra khỏi đất nước." Đối với
ông đại sứ, vấn đề di tản là chuyện ông không thích bàn tới. Ông nghĩ là nếu có
quá nhiều người ra đi thì dân chúng sẽ rối loạn, gây nguy hại cho chánh phủ của
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi ông đại sứ rời cuộc họp báo, các trưởng cơ
quan thông tấn giữ tùy viên báo chí của sứ quán lại và bắt đầu quy hoạch chuyện
di tản của họ.

12:00 giờ
Chúng tôi lái chiếc xe con chạy lên quốc lộ 1, cách Sài Gòn khoảng 40 cây số.
Chúng tôi dừng lại tại tiền đồn cuối cùng của quân chính phủ. Đối với tôi thì
toàn là những cảnh đã quen mắt. Cách nay ba năm, hầu như cũng tại chỗ này, David
Kennerly và tôi bị bắt buộc phải nằm mọp xuống trong một cuộc chạm súng giữ dội.
Đó là lần đầu tiên tôi thấy được quân lính Bắc Việt đang hành động chớ không
phải bị chết hoặc bị bắt làm tù binh. Chúng tôi bị bao vây hàng giờ. Giờ đây,
trong năm 1975 này, chiến tuyến không còn cách xa nhau nữa. Những chiến sĩ Việt
Nam Cộng Hòa ngồi gần hố cá nhơn nấu ăn trong khi đạn pháo binh của cộng sản
thỉnh thoảng bay qua đầu họ. Con đường cái quan vắng lạnh, loan lỗ vì đạn pháo,
chạy dài tới tận chân trời, có vài ba đám khói đen bốc lên và những tiếng tác xạ
ì ầm.

Nik Wheeler, một nhiếp ảnh viên làm việc cho tuần báo Newsweek muốn đi xa hơn
nữa trên con đường đó, đến khu đất giữa hai chiến tuyến. Tôi cho đó là một ý
nghĩ điên rồ. Tôi đã bị ở Xuân Lộc một lần, giờ lại đến đó nữa thì không có tôi.
Không có bài phóng sự về những gì xảy ra ở quốc lộ 1 vì câu chuyện to lớn sắp
xảy ra và dứt khoát đó là sự sụp đổ của Sài Gòn.

Ngày 22 tháng 4
Một tình hình tôi chưa bao giờ chứng kiến khi đi trên đường phố Sài Gòn. Đường
Tự Do, một con đường chánh, rất rộn rịp, lúc nào cũng ồn ào, nay lại im lặng một
cách khác thường. Không còn những đứa bé đi rong trên đường kêu xin "Ông cho tôi
tí tiền". Những tiệm bán hàng nghệ thuật, đầy dẫy những tranh cổ điển Việt Nam
và những tranh trên vải to lớn, nói lên cái kinh hoàng của chiến tranh, vắng
khách như chùa bà Đanh. Các bar, với những cô gái đi giày cao gót, chào đón
khách Mỹ bằng câu mời quen thuộc "You want Saigon tea?", giờ cũng vắng tanh. Ông
chà và tiệm sách, kiêm thêm nghề đổi tiền, giờ cũng hoàn toàn ngồi đếm thời
gian.

Thế nhưng, có những nét mặt âu lo thập thò đàng sau những cánh cửa hé mở. Quân
cảnh rượt đuổi những anh lính đào ngũ trên đường. Một đám trẻ con bám lấy tôi
van xin "Đem tôi sang Mỹ đi ông!"

20:00 giờ
Thiết quân luật đã được ban hành. Bọn chúng tôi bao quanh chiếc máy thu hình ở
quày rượu khách sạn Caravelle. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang đọc một bài diễn
văn quan trọng cho cả nước. Một cuộc giả từ. Mặc chiếc áo nhà binh hở cổ, ông
nói những lời từ biệt đắng cay. Ông nguyền rủa tổng thống Ford, ngoại trưởng
Kissinger và thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ rơi Việt Nam. Nước mắt chảy dài xuống má,
tổng thống Thiệu kết thúc bài diễn văn bằng những lời nói sau đây:

"Hôm nay tôi ra đi. Tôi xin đồng bào, quân đội và đoàn thể tôn giáo hãy tha thứ
những sai lầm của tôi trong khi cầm quyền. Đất nước và tôi sẽ hết lòng tri ân.
Tôi không xứng đáng. Tôi xin từ chức, nhưng tôi không đào ngũ."

Chúng tôi nhìn nhau, không tin là có thể như thế được. Hầu như ông tổng thống
đơn thương độc mã hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự hỗn loạn của Sài Gòn hiện
nay. Quyết định rút quân từ phía Bắc của ông ta để tăng cường Sài Gòn là nguyên
nhân làm cho sức mạnh của Việt Nam phải bị tan rã.

23:00 giờ
Đường phố Sài Gòn hoang vắng, ngoại trừ vài ba xe Jeep quân cảnh thỉnh thoảng
chạy tuần tra và một vài ông cảnh sát lẳng lặng đạp xe đi "rông". Tất cả các Bar
đều im lặng. Giờ giới nghiêm đã điểm. Nhiều xe buýt đen, không đốt đèn hiệu lướt
êm như những bóng ma trên đường rồi dừng lại trước khách sạn Palace.

Trong âm thầm, một người Mỹ vận thường phục đưa một nhóm người vừa Tây phương
vừa Việt Nam, ra đường, dừng lại trước xe buýt. Một đứa bé oà lên khóc, mẹ nó
lấy tay bụm miệng nó lại. Đoàn người đó lẳng lặng chui vào xe buýt đang đậu chờ,
cũng như những đoàn người tương tự đang làm như vậy, cùng lúc đó ở nhiều nơi
khác trong thành phố.. Cũng im lặng như khi đến, những chuyến buýt lướt đi âm
thầm trong bóng đêm.

Sáng ra, trên đường đi làm, người Việt Nam sẽ để ý thấy có nhiều tiệm đóng cửa.
Bạn bè đến thăm những gia đình sẽ thấy cửa nhà đã khóa chặt. Vài ba cái bao và
những cái thùng không được chất đống trên dĩa hè. Cuộc di tản đã bắt đầu.

Chương 3 : Chỉ có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra

Thứ Tư, 23 tháng Tư Khu DAO, Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt -10:00 giờ
Một cảnh hỗn độn khác thường tại một địa điểm giải trí của Mỹ, nhà chơi Bowling.
Một thằng bé đang tắm trong một thùng nước. Người Việt Nam nằm la liệt, có kẻ
ngủ trên những lằn ném banh gỗ. Rác rến, phân người dưới đường mương. Tôi thấy
một công nhân xây dựng Mỹ, đầu đội chiếc nón Cowboy, điền giấy tờ cho cô bạn
Việt Nam đang bám lấy tay ông, mặt mày lo âu. Cô có dáng vẻ của một gái bán Bar,
chiếc váy cũn cỡn bên trên đôi giày ống. Một viên chức sứ quán giải thích rằng
chỉ cần gã đàn ông ký giấy cam kết sẽ hỗ trợ cô bên Hoa Kỳ là cô có thể rời Việt
Nam. Viên chức đó thừa biết rằng cô gái này đâu phải là người duy nhứt ra đi
theo kiểu đó. Nhiều hãng thầu Mỹ đã làm giấy bảo lãnh cho những cô gái của cả
một cái Bar đi Mỹ nữa kìa. Chỉ có trời mà biết chuyện gì sẽ xảy đến cho những cô
gái này ở bên Mỹ. Tôi nghĩ bụng rồi đây Mỹ không những sẽ tiếp tay cho nghề mãi
dâm trên đất nước Hoa Kỳ mà chính phủ còn phải trả phụ cấp cho bọn ma cô.

Bên ngoài nhà chơi Bowling, hàng ngàn người Mỹ và Việt Nam đứng chụm nhum, bàn
bàn, tán tán. Những người may mắn thì tìm được bóng mát dưới tàn cây, gia tài
của cải nằm dưới chưn. Có người ăn mặc bảnh bao. Có người có vẻ giàu có, với
những chiếc va li nặng kỳ lạ, chắc là đầy vàng khối trong đó, sau khi đem tiền
đổi lấy quý kim của Ba Tàu Chợ Lớn.

Đằng cuối khu, binh sĩ không quân tập hợp từng nhóm trăm người, khi đã đủ số,
đưa lên xe buýt chạy ra phi cơ. Trên không lúc nào cũng nghe tiếng động cơ phản
lực thường xuyên cất cánh đi Guam, Manila và San Francisco, hoặc đáp xuống.

14:00 giờ - Quốc lộ 1 - 40 cây số phía Bắc Sài Gòn
Tôi đang chụp hình quân lính Việt Nam quảy gà trên vai, theo sau là những nông
dân đầu đội nón lá, la lối khiếu nại. Đạn pháo thường xuyên rót vào, rơi nổ inh
tai nhức óc, cách chỗ chúng tôi chừng cây số.

Thình lình, một đoàn thiết vận xa tháo chạy gần đó, đụng toán lính bắt gà của
dân đang đi trên đường, nhưng cũng không chịu chạy chậm hay ngừng lại. Nik
Wheeler la lên: "Chết rồi, lại rút lui. Sư đoàn 18 bỏ chạy rồi!"

Thứ Năm, 24 tháng Tư - Sài Gòn - 08:30 giờ
Con đường chánh của Sài Gòn trông vẫn giống như cách nay 10 năm, khi Hoa Kỳ đã
có mặt tại Việt Nam. Một vài cái Bar đã mở cửa, và mấy cô nàng xinh đẹp, váy
ngắn đã đứng trước cửa vẫy tay mời gọi. Ở những gánh phở bên đường, người Việt
Nam ngồi chồm hổm, thưởng thức tô phở buổi sáng.

Điều thay đổi duy nhứt, dễ thấy đối với con mắt đã quen, là bỗng nhiên đường phố
Sài Gòn có quá nhiều lính tráng Việt Nam. Lang thang một cách vô tích sự, hoặc
đi từng đám đông đòi hỏi được giúp đỡ, chớ không phải xin của bố thí. Một trận
cãi vã ầm ĩ khi một nhóm quân nhân ăn uống mà không trả tiền tại một quán ăn
đường phố. Một xe quân cảnh đỗ xoẹt lại và lính QC túa ra. Súng bắn chỉ thiên,
thế là dân thường và nhà binh chạy tránh đạn, giẫm phải một thương binh cụt hai
chưn, ngồi xe lăn xin ăn ở gốc đường.

Xa hơn nữa đằng cuối đường, một chiếc xe tải nhỏ hiệu Ford lặng lẽ đến đậu trước
tòa nhà cao ở bờ sông. Một thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, ăn mặc đồ trận xuống xe,
theo sau có nhiều đàn bà Việt Nam, với thùng sơn và cọ. Họ nhanh chóng chui vào
tòa nhà, lấy thang máy lên trên nóc để làm việc. Một giờ sau, họ hoàn tất công
tác, trở xuống xe và tiếp tục đi đến địa điểm kế tiếp. Bên trên tòa nhà họ vừa
rời đi có một số 2 màu vàng, mới sơn.

Cercle Sportif Sài Gòn - 12:30 giờ
Thời gian trôi qua êm ả ở Cercle Sportif, một câu lạc bộ thể thao do người Pháp
thành lập để họ vui chơi dưới thời thực dân. Cái câu lạc bộ sang trọng đó - nằm
ngay sau dinh tổng thống - đã nhắm mắt dửng dưng với cuộc chiến từ ngày thành
lập đến nay.

Mỹ và Việt Nam trám đầy những sân quần vợt, dẫu cho giữa trưa đứng bóng, trong
khi bên hồ bơi những người hầu bàn bưng ra những ly cối chanh vắt mát rượi cho
những người Mỹ, người Pháp và những người phụ nữ hai dòng máu đang tắm nắng.

Michel Laurent, một nhiếp ảnh viên tự do người Pháp, quần bò, áo bốn túi, băn
khoăn muốn đi làm phóng sự bên ngoài Sài Gòn. Anh ta cho rằng cứ ngồi ở hồ bơi
như vầy mất hết thời giờ. Nik Wheeler nhắc lại anh ta về những gì đã thấy ở quốc
lộ hôm trước. Nay, sư đoàn 18 đã tan hàng thì làm gì còn có chỗ đi ra ngoài Sài
Gòn?

Chúng tôi thảo luận với anh ta rằng dẫu cho mình có qua được bên kia nút chặn
thì nếu có lệnh di tản rồi làm sao đây? Rồi anh ta lại cứ quanh quẩn với những
chuyện rừng núi trong khi câu chuyện đích thực đang xảy ra ở Sài Gòn. Michel
không chấp thuận luận điểm của chúng tôi và anh ta bỏ đi, điếu xì gà ngậm chặt
giữa hai hàm răng. Còn chúng tôi thì kêu thêm hai ly chanh vắt nữa.

Văn phòng của NBC, Sài Gòn - 17:30 giờ
Văn phòng của NBC, nhìn xuống đại lộ Nguyễn Huệ, là một tổ ong rộn rịp sinh
hoạt. Ngoài phóng viên, toán thu hình và nhơn viên viết bài ra, còn có hàng chục
người Việt Nam kiên nhẫn xếp hàng đứng dọc theo tường.

Ngồi trong phòng, Henry Griggs - một phóng viên chiến trường của NBC từ New York
sang thế tạm chức vụ trưởng cơ quan thông tấn - thở ra khi có thêm một người
Việt Nam nữa bước vào. Một bà người Việt, ăn mặc vén khéo, tóc tai bù xù, nước
mắt hai hàng, yêu cầu Henry giúp đỡ cho gia đình bà ra khỏi Sài Gòn. Bà cho biết
là em họ bà - người đã hy sinh tại mặt trận trong cuộc tấn công vào Cam Bốt - đã
có lúc làm văn thơ cho NBC, phụ trách việc đem phim ra phi trường. Anh ta lúc
nào cũng đề cao NBC, và bây giờ chắc là hãng thông tấn sẽ đưa gia đình bà ra
khỏi nước.

Griggs biết rằng cảnh tượng đó ở cơ quan thông tấn nào của Mỹ ở Sài Gòn cũng có.
Ông bắt đầu giải thích rằng ông chỉ có thể đưa nhơn viên của NBC và gia đình đi
trước đã. Đêm hôm trước, Griggs đã thức gần tới sáng cùng với một nhóm trưởng cơ
quan thông tấn để lên kế hoạch di tản. Dường như chẳng đi tới đâu cả. Cũng nhóm
đó thậm chí đã thuê một chuyến phi cơ phản lực để đưa nhơn viên Việt Nam của họ
đi mấy đêm trước đó, nhưng phi cơ đã không được phép đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Hôm
tuần rồi, Griggs đã đi Hong Kong gọi điện cho David Kennerly, nhiếp ảnh viên của
Bạch Cung, yêu cầu ông này trình với tổng thống xem có cách nào không. Ông
Kennerly đã đích thân tìm hiểu trường hợp Nam Việt Nam bị sụp đổ, có hứa sẽ làm
mọi cách trong khả năng mình, nhưng từ đó đến nay , chẳng có gì hết!

Griggs nhìn ra cửa sổ, thấy ở rạp chiếu bóng REX, bên kia đường quần chúng Việt
Nam đang mua vé để xem phim mới của Brigitte Bardot, "Boulevard du Rhum". Ông
ngó lên nóc của rạp Rex, nay hoang vắng, và nhớ lại thời vàng son của nó, lúc nó
còn là nhà hàng sang trọng của câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ. Ông ta đã trải qua một
thời gian thoải mái ở đó, kết thân với lắm bạn bè, hồi thời 1966. Lúc bấy giờ
mọi việc đều đơn giản!

Chương 4 : Xin ông làm ơn đưa tôi đi

Ngày 25 tháng Tư - Sứ Quán Anh, Sài Gòn 08:00 giờ
Khói đen bay lên cuồn cuộn ở phía tòa đại sứ Anh, người ta thiêu hủy tài liệu.
Cổng tòa đại sứ mở toang, ông đại sứ John Christopher Wydows Bushell, trong bộ
đồ bốn túi thẳng nếp, đi chiếc Jaguar màu bạc, chạy ngang qua đám nhơn viên sứ
quán đang la lối om sòm, hướng về Tân Sơn Nhứt để di tản.

Nik Wheeler nói rằng như vậy còn ít tàn nhẫn hơn bọn Canada. Chúng nó biểu nhơn
viên ngày hôm sau trở lại để được đưa đi, nhưng khi trở lại thì thấy mọi người
đã chuồn mất đêm trước rồi!

Saigon - Một khu công giáo ngoại ô, gần Tân Sơn Nhứt 14:00 giờ
Một đoàn người lũ lượt kéo đi - gần như một cuộc biểu tình - trên con đường đầy
cát bụi và nóng bức. Đủ thứ bích chương, biểu ngữ, mang những khẩu hiệu như
"Chiến đấu tới cùng... Việt Nam Cộng Hòa muôn năm". Thỉnh thoảng có một biểu ngữ
khác hơn, màu xanh và vàng với hàng chữ "Hòa bình và thương thuyết - Đừng đổ
máu". Những bích chương, biểu ngữ viết tiếng Việt hàng trên, nhưng cũng có tiếng
Anh ở hàng dưới dành cho những toán truyền hình Mỹ.

Đoàn biểu tình kéo tới một khán đài, đặt trước một nhà thờ. Với tiếng hoan hô
vang dội, đám đông đưa người hùng của họ lên diễn đàn. Ông tướng không quân Việt
Nam đó - cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương và cựu tổng thống Việt Nam -
không ai khác hơn là Nguyễn Cao Kỳ. Với cái khăn quàng cổ quen thuộc, với bộ đồ
bay áo liền quần truyền thống và không thiếu khẩu súng lục bên hông, ông ta lên
tiếng trước đám đông.

Tướng Kỳ hô hào dân chúng chống trả lại đà tiến của quân cộng sản. Ông cho rằng
bọn cộng sản là "một lũ chuột và sẽ không khi nào vào Sài Gòn được". Ông ta cam
kết tiếp tục chiến đấu, với một khẩu khí hiếm thấy: "Cứ để cho bọn hèn nhát chạy
theo Mỹ, còn những ai yêu Việt Nam thì hãy ở lại để chiến đấu."

Một nhà báo Việt Nam quay sang chúng tôi và càu nhàu: "Ông ta điên rồi!" Chúng
tôi rời đám đông, tiếng nói của ông Kỳ, qua loa phát âm, cứ theo đuổi chúng tôi
ra đường cái. Chúng tôi đang chờ Taxi thì có tiếng còi hụ vang lên giữa tiếng ồn
ào của xe cộ lưu thông. Một chiếc Jeep quân cảnh, bên trên có đặt súng máy, vượt
qua toán xe cộ, mở đường cho một chiếc Mercedes màu đen, theo sau là một chiếc
xe Ford chở đầy mật vụ. Đoàn xe vụt qua rồi mất dạng ở cuối đường. Tôi thắc mắc
thì người phóng viên Việt Nam mĩm cười và đáp:"Ông Thiệu chớ ai. Ông ấy đang từ
giả Việt Nam."

Sài Gòn, văn phòng TIME/LIFE - 17:00 giờ
Roy Rowan, xử lý thường vụ trưởng cơ quan của TIME, đang họp văn phòng. Tôi nhìn
quanh căn phòng. Đã có lịnh mới của New York cũng như của sứ quán Hoa Kỳ cho
chúng tôi. TIME quyết định hạn chế việc đưa thêm người đến Sài Gòn. Họ cũng muốn
chúng tôi giảm nhơn số càng nhanh càng tốt. Những lịnh từ New York đã rõ ràng là
đưa nhơn viên Việt Nam đi, rồi rút bớt nhơn số còn lại. Chỉ còn phần nhơn viên
cốt lõi ở lại đến lúc cuối cùng.

Tòa đại sứ cho các trưởng cơ quan thông tấn biết rằng trong trường hợp di tản
Sài Gòn, đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ sẽ phát bản thông cáo khí tượng đặc
biệt, như sau: "Nhiệt độ lên đến 105 (độ F) và đang tăng lần!" Khi nghe tín hiệu
đó, tất cả các nhơn viên làm tin tức người Tây phương phải đến tập trung ở địa
điểm di tản, đã được quy định, trong thành phố. Chúng tôi được biết công tác di
tản sẽ quyết liệt nhứt khi đài phát thanh bắt đầu phát đi điệu nhạc "White
Christmas" do Bing Crosby trình bày.
[...]
Ngày 26 tháng Tư - Sài Gòn, Khách sạn Continental

Một nhóm nhỏ nhà báo Mỹ ngồi quanh một cái bàn ở trên sân bên trong khách sạn
Continental. Cái khách sạn cũ kỹ này ăn nên làm ra nhờ những quân đội chiếm
đóng. Ban đầu là Pháp, kế đến là Mỹ. Trong khi chẳng có khách sạn mới nào cất
thêm gần đó, một số khác sau này bị khủng bố phá hoại, Continental tìm cách để
thoát khỏi mọi thứ đó, phần lớn nhờ biết nộp nhiều "thuế" cho cộng sản. Người ta
còn có cảm tưởng là một vài nhà báo làm việc trong khách sạn, thực ra là người
của cộng sản. Kết quả là khách sạn này được báo chí ngoại quốc chiếu cố, vì một
phần nào đó họ có được cái cảm tưởng là còn hưởng được cái thích thú của thời
thực dân Tây, đã qua rồi từ lâu, ngày nay chỉ còn lại cái hào nhoáng vật chất mà
thôi.

Mấy cậu bé đường phố liếc mắt canh chừng những anh dọn bàn để lẽn vào bên trong
nhà hàng, xin đánh giày, bán báo khiêu dâm, thậm chí "bán" chị của chúng và, xa
hơn nữa, bán anh hay em trai của tụi nó và tệ hại hơn nữa bán thân của chính
chúng nó cho những ai thích làm tình kiểu kỳ quái!

Thế nhưng, sáng hôm nay chẳng có nhà báo nào để ý đến những cái trò quái quỷ
thường ngày đó nữa. Họ chỉ bàn tán đến số phận của Michel Laurent vừa bị hy sinh
trong khi đang hành nghề tại hiện trường. Michel đang làm nhiệm vụ với một toán
thu hình thì bị VC pháo kích ở quốc lộ 1. Chuyên viên thu hình may mắn thoát
khỏi, nhưng giây phút cuối cùng anh ta còn trông thấy được Michel là khi hắn ta
bỏ anh ấy mà chạy thẳng vào phía hỏa lực đối phương.

Có thể Michel đã bị thương. Michel là con người kỳ cựu của chiến tranh Việt Nam,
đã từng theo dõi cuộc chiến này trong vòng năm năm qua. Cộng thêm hai năm phóng
viên chiến trường ở Phi Châu, với quân đội Pháp, chưa kể thời kỳ ở Bangladesh.
Dẫu sao đi nữa thì Michel cũng là người Pháp...nhưng tuy vậy họ vẫn biết rằng
khi một người bạn đã tuyệt tích giang hồ thì chẳng còn khi nào trở lại nữa! Và
chúng tôi bắt đầu nghĩ đến thân phận của chính mình.

Quày rượu trên sân thượng khách sạn Majestic -23:00 giờ
Bọn chúng tôi, người nào cũng già ba mươi năm kinh nghiệm chiến trường Việt Nam,
đang kết thúc bữa ăn tối bằng rượu mạnh để giúp đỡ tiêu hóa và xì gà Cuba. Nhóm
này gồm có Roy Rowan của tạp chí TIME, người đã từng chứng kiến sự sụp đổ của
Quốc dân đảng Trung Hoa vào tay Trung cộng ở Thượng Hải. Vì vậy nên tòa soạn báo
TIME ở New York tặng cho anh ta bí danh là "người đóng cửa đất nước". Còn có
Catherine Leroy, một cô đầm nhỏ thó nhưng năng nổ hăng say, đã làm bài phóng sự
độc đáo cho tạp chí Life, nhờ chị đã đi thực tế trong hàng ngũ Việt Cộng khi
cộng sản bao vây Huế hồi Tết Mậu Thân. Ngoài ra, còn có Dave Greenway của Los
Angeles Time, Mark Godfrey, Nik Wheeler và tôi.

Trải qua một lúc lâu thoải mái, trong bầu không khí ẩm ướt của đêm Sài Gòn và
với hương thơm thoang thoảng của phương Đông, dường như trong một giây phút ngắn
ngủi chiến tranh đã đi đâu mất. Thức ăn ngon, rượu vang tuyệt vời và độ nồng ấm
của rượu mạnh sau bữa ăn loan tỏa qua đầu và qua người, những chuyện của Sài
Gòn, trong phút chốc, đã biền biệt đi xa.

Khi những người hầu bàn bắt đầu thu dọn, vì đã quá khuya, thì câu chuyện của
chúng tôi trở lại với thực tại. Rồi chúng mình sẽ làm gì đây? Không một ai trong
bọn tôi cho rằng nguy cơ sẽ do quân lính Bắc Việt mà ra. Thế nhưng, tình hình
phân hóa, không ai chỉ huy của quân đội và cảnh sát Việt Nam làm chúng tôi lo
ngại nhiều hơn. Quân đội và cảnh sát lâm thời sẽ điên loạn lên khi Mỹ ra đi và
cộng sản tái lập được trật tự.. Chúng tôi đã thảo luận về vấn đề đó không biết
bao nhiêu lần rồi, nhưng tiếc thay chưa có câu giải đáp.

Nik Wheeler và tôi rời bàn ăn, đứng lên nhìn xuống sông, từ lầu tư của cái khách
sạn xưa cũ nằm trên bờ sông. Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh đang nằm yên trong bóng đêm.
Tôi nhớ lại có một đêm tôi suýt chết khi trái mìn định hướng nổ bên cạnh, và tôi
đang chụp cảnh trí đó. Một người bạn bị thương kêu cứu nên tôi vừa quỳ gối xuống
xem anh ta thì những mảnh vỡ của quả mìn bay trên đầu tôi.

Giờ thì nhiều bạn bè đã nằm xuống nơi chiến trường này. Henri Huet, chuyên viên
nhiếp ảnh, cùng làm việc với tôi ở UPI Sài Gòn, Dana Stone và Sean Flynn, những
phóng viên mạo hiểm, mãi mê đuổi theo niềm hứng khởi của mình, nên đã lọt vào
tay tiểu đội hành quyết Cam Bốt, Larry Burrows, người nghệ sĩ dễ thương của tạp
chí Life, Kyoichi Sawada, người đã chiếm giải Pulitzer đầu tiên khi làm việc
cùng cơ quan thông tấn UPI với tôi và nay đến lượt Michel!

Trên đường đi xuống cầu thang, chúng tôi qua ngang một gian phòng rộng lớn đả
được chính phủ mới của Dương Văn Minh sắp đặt để mở hòa đàm. Một chiếc bàn tròn
to lớn nằm ở giữa phòng. Trên bàn là một huy hiệu của Kinh Dịch, có hai chim bồ
câu bao quanh. Đó là huy hiệu mới của chính phủ hòa hợp hòa giải. Chúng tôi mĩm
cười khi nhìn thấy anh bảo vệ nằm ngủ trên mặt bàn. Tôi bước đi vào đêm tối im
lìm.

Chương 5 : Ai làm ăn lương thiện có thể ở lại

Ngày 27 tháng Tư - Sài Gòn, khách sạn Palace -01:00 giờ
Tôi chưa giải nghể được sau cuộc chè chén đêm qua. Tôi lấy một chai bia 33 trong
tủ lạnh nhỏ đặt trong phòng. Tôi vẫn còn nửa điếu xì gà "Romeo & Juliet" của bữa
ăn hôm qua ở Majestic. Tôi ngồi trên giường để ghi những lời chú thích cho cuộn
phim mà ngày mai tôi phải gởi đi New York. Tôi bước lại tủ lạnh, lôi một chai
Cognac nhỏ và thêm vào tí Soda. Tôi tắt máy điều hòa không khí, rồi mở cửa sổ
ra. Vì lịnh giới nghiêm nên đường phố như vắng tiếng xe cộ. Tôi nhớ ra rằng chưa
bao giờ gặp một tình hình như vậy của Sài Gòn. Chắc giống cảnh Sài Gòn trong
những năm hai mươi, trước thời kỳ của xích lô, của xe Lam và của những chiếc
Taxi hai màu vàng và xanh lơ chạy khắp phố phường.

Tôi nhìn ra những con đường rộng lớn của thành phố. Gần như hoang vắng. Khi
người Pháp vẻ bản đồ Sài Gòn, họ hình dung những con đường rộng rãi và có trồng
cây hai bên. Quả thật như là Paris của phương Đông. Tôi đem máy ảnh ra lau chùi.
Bụi đất đỏ len lỏi vào nhiều bộ phận của máy ảnh. Tôi kéo vạt áo thun để lau bộ
phận ngắm. Tôi thật tình muốn làm thêm một phóng sự nữa ở quốc lộ 13. Có lẽ vào
buổi sáng.

David Kennerly đến đón tôi tại khúc quanh bằng xe của khách sạn Caravelle. Chúng
tôi định thực hiện một "chuyến đi an toàn" ra tiền tuyến. Leon Daniel ngồi băng
sau. Dọc theo quốc lộ 13, khoảng 30 cây số về phía Bắc của Sài Gòn là chúng tôi
bắt đầu vào vùng phi quân sự. Chúng tôi choàng áo giáp lên vai và núp xuống bên
trong xe. Người tài xế nhấn hết ga và chúng tôi lao đi nhanh như tên lửa trong
khi hỏa tiễn Bắc Việt bay veo veo trên đầu.

Chúng tôi bắt kịp một đại đội Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang di chuyển lên
hướng Bắc. Chúng tôi chụp hình quân lính và chiến xa của họ đang tiến trên quốc
lộ, rồi dừng lại ăn trưa. Đang gặm miếng ăn cầm tay (Sandwich) thì đám mây đen
nghịt bắt đầu kéo đến. Mưa bắt đầu rơi nặng hột thì một tràng AK-47 nổ trên
không, ngay trên đầu tôi. Tôi cảm thấy không khí rung động. Đột nhiên, hàng cây
cháy bùng lên. Chiếc xe của khách sạn xoay tròn và tan ra nhiều mảnh vụn trên
quốc lộ, bỏ chúng tôi lại bơ vơ. Đạn pháo cỡ lớn, loại 105 ly, bắt đầu rơi quanh
chúng tôi. Một chiếc thiết vận xa, cửa sau còn mở, chạy thoáng qua. Tôi chạy
theo thật nhanh, dưới cơn mưa, nhảy gọn lên, xong khép cửa lại.

Trong góc xe, một bóng người ngả xuống, khói bốc lên từ thân xác. Tôi nhìn xem,
thì dường như là một chuyên viên nhiếp ảnh. Máy ảnh loại Nikon F của anh nằm
xoài trên sàn xe, chiếc máy tan tành. Tôi thử nhặt chiếc máy lên, nhưng nóng
quá. Tôi đành bỏ xuống. Bên ngoài chiếc thiết vận xa, tôi có thể nghe tiếng đạn
pháo đang tìm mục tiêu. Màng nhĩ của tôi nổ lung tung. Một quả tạc đạn lân tinh
nổ bùng bên trong thiết vận xa. Tiếng nổ thật chát chúa. Chất lân tinh bốc lên
không rồi rơi xuống như những cánh tuyết, chỉ khác là rơi xuống chỗ nào là cháy
chỗ đó. Tôi thấy lớp da của tôi bốc cháy, nhưng kỳ lạ vô cùng, là tôi chẳng thấy
đau đớn gì hết. Đạn pháo và hỏa tiễn đang tập trung vào tôi. Và đang lần hồi tới
gần...

Khách sạn Palace - 04:00 giờ
Tôi thức giấc, chiếc áo thun đẫm ướt mồ hôi. Thì ra, cái máy điều hòa không khí
đã ngừng từ lâu. Thình lình, có một sự rung động như là hỏa tiễn rơi ngay bên
ngoài cửa sổ. Mảnh vụn văng tứ tung. Có tiếng còi hụ. Tôi chạy ra khỏi phòng và
chạy xuống cầu thang, ra đường. Vụ nổ làm bừng sáng cả một góc trời. Có lửa cháy
trên nóc khách sạn Majestic, chỉ cách chỗ tôi một khu nhà. Tôi len lỏi đi qua
đám đông đang hoảng sợ. Từ lầu hai, Nik Wheeler gọi xuống, tôi chạy trở lên.
Phía sau Nik là phòng họp đã chuẩn bị đang bốc khói. Qua khói mù và những mảnh
vụn, chúng tôi khó khăn lắm mới nhận thấy một xác người. Thì ra đó là anh chàng
bảo vệ nằm ngủ trên bàn họp đêm qua.

Chợ Bến Thành - 07:30 giờ
Ngôi thánh đường đổ nát, chỉ còn lại cây thánh giá đứng trơ vơ. Một vùng, bề dài
bằng hai khu nhà, ngang bằng một, đã bị trận pháo kích đêm qua tàn phá. Nhơn
viên cứu cấp lôi ra một xác người từ đóng tro tàn còn bốc khói. Những người phụ
nữ lang thang trong đống gạch vụn, thúc thích trong khăn tay. Thỉnh thoảng có
người tìm thấy một xác chết trẻ con và oà lên khóc. Đang chụp hình, tôi bỗng
nhiên nhận thấy một cô phóng viên truyền hình xinh đẹp, áo bông, váy ngắn và
giày ống, mà tôi chưa gặp bao giờ. Cô có vẻ lúng túng trong khi đang làm việc.

Đó là Hillary Brown của hãng thông tấn ABC, mới vừa đến Việt Nam. Cô đã từng
theo dõi các trận đánh bom ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Như vậy, cô không xa lạ gì với cảnh
tượng ở Việt Nam. Sửa lại dáng đứng, cô có lời phê để ghi vào thiên phóng sự:
"Kể từ 1968, đây là lần đầu tiên hỏa tiễn cộng sản rơi xuống Sài Gòn. Người dân
thủ đô không tưởng tượng được là lực lượng địch ở ngay bên ngoài đường biên
thành phố. Họ thấy rằng đây có thể là màn cuối cùng của cuộc chiến này."

Khu cộng sản Bắc Việt trong Tân Sơn Nhứt - 12:00 giờ
Mặc dầu Sài Gòn vừa bị pháo kích, và lực lượng chiến đấu đang lảng vảng ở ngoại
ô thành phố, đoàn quan sát ngừng bắn của cộng sản Hà Nội cứ mở họp báo ngày chủ
nhựt như thường lệ. Đúng theo tinh thần Hòa đàm Paris, phi trường Tân Sơn Nhứt
được cộng sản dùng làm nơi họp báo của họ.

Nằm vào một góc của căn cứ không quân Mỹ trước kia, khu cộng sản Bắc Việt được
những cây cọ dừa cung cấp bóng mát. Những người lính Bắc Việt, đầu đội nón cối,
vai mang AK đi tuần rảo quanh doanh trại hoặc đứng im một cách lạnh lùng. Một
nhóm ký giả Mỹ và chuyên viên thu hình đứng đầy căn lều bằng tôn mái tròn, chờ
dự họp báo.

Cuối phòng, một cây cờ Việt Cộng to tướng, nửa đỏ, nửa xanh lơ, ở giữa là một
ngôi sao vàng, được treo trên tường. Ngồi ở cái bàn trải thảm màu xanh lá cây,
đặt ngay bên dưới cây cờ, ông đại tá Ba, phát ngôn viên của họ trả lời các ký
giả. Trong khi đó vài ba người lính cộng sản mời nước ngọt cho những nhà báo
đang nóng nực vì lều chật lại đông người, vì ánh đèn quay phim làm tăng cao độ
nhiệt.

Hillary Brown hỏi đại tá Ba: "Giờ thì có hy vọng gì đi đến một giải pháp qua
thương thuyết với chính phủ Sài Gòn không? Cộng sản có chấp nhận tổng thống
Hương như là thành phần của chính phủ hòa hợp hòa giải, khi tổng thống Thiệu đã
ra đi không?" Đại tá Ba nghiêm trọng lắc đầu và đáp: "Ông Hương hay ông Thiệu
thì cũng thế thôi."

Thắc mắc chánh của báo chí ngoại quốc, được hỏi đi hỏi lại nhiều lần là nếu họ ở
lại khi Bắc Việt chiếm thành phố thì số phận của họ sẽ như thế nào? Họ có được
an toàn không? Tất cả bọn chúng tôi nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày
sắp tới. Mĩm cười, đại tá Ba trả lời:"Người nào làm ăn lương thiện sẽ được đối
đãi tử tế."

Sài Gòn - Trụ sở Thượng viện -15:00 giờ
Một toán quân danh dự dàn chào - quân phục trắng thẳng nếp, nón sắt bóng láng
phản chiếu ánh nắng mặt trời - đứng nghiêm trước tòa nhà thượng viện, trang trí
cờ xí, nằm trên con đường dọc theo sông Sài Gòn. Các toán truyền hình chạy lăng
xăng tìm cách thu hình các phái đoàn. Có Nguyễn Cao Kỳ với bà vợ xinh đẹp và
mảnh mai. Ông "Minh Cồ", đã có một lúc làm Chủ tịch hội đồng quân nhân cách mạng
cũng đến dự. Cuối cùng, kèn trống inh ỏi, một chiếc xe Mercedes đen trờ tới, có
toán an ninh với M-16 hộ tống. Tổng thống Trần Văn Hương, vừa nhậm chức hai mươi
bốn giờ qua, đứng trước toán quốc kỳ làm lễ chào cờ. Quốc thiều trổi lên. Chậm
rãi, ông xoay người qua, và từng bước một, ông leo mấy nấc thang của quốc hội để
từ chức tổng thống. Và nhiệm kỳ ngắn ngủi của ông đã xong rồi.

Chương 6 : Tôi nghĩ ai ai cũng điên khùng

Ngày 28 tháng Tư - Cầu Tân Cảng, Sài Gòn - 10:00 giờ
Trực thăng võ trang bay ngang dọc trên đầu người, tiếng bay của hỏa tiễn đua
nhau xé không gian. Quân sĩ Việt Nam nằm sát hai bên lề đường trên cầu, nổ súng
khơi khơi nhắm vào bờ bên kia sông. Nhiều cột khói khổng lồ bốc lên từ những nhà
kho của Tân Cảng và từ các thùng chứa xăng nằm trên cửa sông vào Sài Gòn. Tại
con xa lộ bốn đường xe chạy này, cách xa trung tâm thành phố không đầy năm cây
số, chính phủ Việt Nam đang sống mái với kẻ thù trong một trận đánh cuối cùng.

Tôi nằm úp mặt một bên cầu, trong khi Hillary Brown, tay cầm một máy ghi âm lăn
ngang qua cầu đến chỗ tôi. Chúng tôi cùng nhìn xuống mép cầu. Bên dưới chúng
tôi, ngay trước mặt, có những bóng người chạy ngang qua những ngôi nhà đang
cháy. Những chiếc trực thăng võ trang bay rất thấp, phóng hỏa tiễn và nhả đạn
vào những bóng người đó. Quân Bắc Việt đã đến trước cổng thành phố.

Nhiều chiếc xe tải, bóp còi inh ỏi, xuất phát từ Tân Cảng, chạy hết tốc lực, chở
đầy những thùng đạn. Xe tải chưa qua khỏi chúng tôi thì một tiếng nổ kinh thiên
động địa đẩy mạnh chúng tôi vào thành cầu và một chiếc xe bốc cháy, như một quả
cầu lửa đỏ khổng lồ. Chiếc xe chẳng còn gì. La ó vì sợ hải, những người lính
Việt Nam Cộng Hòa quăng súng chạy nhanh xuống cầu, hướng về phía thành phố.

Cửa hàng mậu dịch của Mỹ, Sài Gòn - 11:30 giờ
Những người Việt Nam đập phá cửa nẻo của cửa hàng mậu dịch to lớn nhứt của Hoa
Kỳ ở Sài Gòn. Trong khi tiếng còi báo động kêu ầm ĩ, họ cứ đẩy những xe chất đầy
đường, gạo, thuốc men, thịt cấp đông,... Cảnh sát đứng nhìn một cách thích thú,
chẳng nói, chẳng rằng. Thỉnh thoảng còn chốp lấy một món hàng nào đó trên xe
thực phẩm đẩy ngang qua trước mặt, như là một cung cách thu thuế.

Dinh tổng thống, Sài Gòn - 15:30 giờ
Phòng khánh tiết rộng lớn, màn treo phướng rủ của Dinh Độc Lập chứa đầy quan
chức chính phủ, dân biểu quốc hội, viên chức tòa đại sứ Hoa Kỳ và phóng viên ký
giả. Gian phòng nóng bức dưới những ánh đèn thu hình. Thỉnh thoảng, một cơn gió
ẩm ướt lay động những bức màn của mấy cái cửa rộng lớn, và mây đen kéo đến, hứa
hẹn một cơn mưa to.

Cụ già bảy mươi mốt tuổi đời Trần Văn Hương, vị tổng thống cuối cùng của Việt
Nam Cộng Hòa, lụm cụm bước lên bục. Nước mắt lưng tròng, ông đọc bài diễn văn
cuối cùng. Ông dứt lời, một quân nhân, trong bộ đồng phục trắng thẳng nếp, sắp
xếp lại quốc kỳ vàng ba sọc đỏ. Một quân nhân khác tháo gở quốc huy tổng thống
cũ xuống. Gian phòng bỗng nhiên im ắng lạ thường, như bị một xúc động cao độ làm
tê liệt. Toàn bộ những người tham dự như bị đông đặc trong một khung cảnh lịch
sử!

Bỗng dưng, như một phát súng lịnh, một tiếng gầm vang dội tràn ngập gian phòng.
Màn trướng tung bay theo gió, mưa nặng hột đổ xuống, đi kèm là sấm sét. Như
chừng trời đất cũng muốn bày tỏ nỗi niềm tức giận cho một hiện tượng chánh trị
có một không hai.

Giữa cơn sấm sét ầm ì, tướng Dương Văn Minh, năm mươi chín tuổi đời, bước lên
bục diễn đàn. Thân phận cuối cùng của Nam Việt Nam được phó thác cho vị tướng
này. Mười hai năm trước đây, cũng chính ông tướng này đã tiếp tay để cho Hoa Kỳ
dấn thân vào Việt Nam bằng cách lật đổ ông Ngô Đình Diệm, một vị tổng thống
chuyên quyền. Giờ đây sự can dự đó đang đi lần đến hồi kết cuộc rả rời. Tướng
Minh tiếp cận với giai đoạn lịch sử một lần cuối, để chứng kiến cuộc trao quyền
lại cho phía cộng sản. Quốc huy mới của đất nước - hình quẻ kinh dịch với hai
con bồ câu - được gắn lên bục diễn đàn thì một tiếng sấm nổ to, rền vang trên
thành phố và vang dội trong phòng khánh tiết.

Sài Gòn - Công trường Lam Sơn - 18:00 giờ
Tội băng ngang đại lộ Nguyễn Huệ, cố giữ cho máy ảnh khỏi bị ướt vì cơn mưa tầm
tã. Một trận kẹt xe kinh khủng, tôi phải bỏ xe để đi bộ đến văn phòng. Xích lô,
Honda, Taxi và xe nhà bị kẹt cứng trên đường, bóp còi inh ỏi.

Chờ cho đám kẹt xe giãn ra, tôi nhìn về phía tượng hai người lính thủy quân lục
chiến Việt Nam dựng ở công trường Lam Sơn, trước tòa nhà quốc hội.. Xuyên qua
tượng đài, tôi thấy ba chấm đen ở chân trời tiến nhanh về phía tôi. Ba chiến đấu
cơ A-37, mang cờ hiệu Việt Nam, nhào lộn trên đầu tôi. Tôi tạm thời cho rằng đó
là một lối biểu dương lực lượng, nhưng cấp thời sau đó, một chiếc tách rời đội
hình, bay về hướng dinh Độc Lập rồi phóng hỏa tiễn xuống. Một cụm lửa nổi lên
bên trong sân dinh, tiếng nổ hòa lẫn với tiếng sấm sét rồi hai chiếc còn lại
cũng bay theo chiếc trước và nhả đạn xuống mục tiêu.

Tôi chui xuống gầm xe, cùng với nhiều ký giả khác, từ dinh Độc Lập chạy ra, tìm
chỗ an toàn. Ba chiếc phi cơ lại rả đội hình và bay sà ngang chỗ chúng tôi nã
đại liên. Sau đó, cả ba kéo mũi lên, bay về hướng Bắc, về miệt phi trường. Tôi
mở máy vô tuyến, băng tần phòng vệ của Mỹ để nghe đài Mission Warden. Đài vẫn
còn hoạt động. Được biết là phi cơ đang ném bom Tân Sơn Nhứt.

Khi băng qua đường đến khách sạn Continental Palace, tôi trông thấy Mark Godfrey
dìu Hillary Brown đến chỗ an toàn. Hai người đều ướt như chuột lột. Súng nổ nghe
đều khắp. Như chừng lính tráng và cảnh sát trong thành phố mạnh ai nấy bắn. Ký
giả Ed Bradley trông như chết điếng vì hoảng sợ khi ông trông thấy người cảnh
sát quay lại, chĩa súng vào đầu chuyên viên thu hình rồi bóp cò. May quá, súng
đã hết đạn!

Những tiếng nói trong tai tôi la lối om sòm, tiếng Việt, tiếng Mỹ lẫn lộn. Một
tiếng nói người Mỹ lấn át tất cả:".... gọi trung ương, gọi trung ương... tôi
không biết chuyện gì xảy ra, nhưng có lẽ mọi người đều điên khùng hết rồi!"

Sài Gòn, trên sân thượng khách sạn Continental Palace - 23:00 giờ
Harry Griggs và Neil Davis của NBC và tôi, cả ba vừa tiêu thụ xong một bữa ăn
tuyệt vời chưa từng thấy, với rượu mạnh và xì gà Cuba, ở nhà hàng trên sân
thượng của khách sạn. Chúng tôi có thể nghỉ ngơi thoải mái vì chẳng còn nơi nào
để đi làm phóng sự, với lịnh giới nghiêm, đã được ban hành từ lúc xế chiều. Ai
bị bắt gặp ờ ngoài đường thì sẽ bị bắn tại chỗ. Chỉ có ba người chúng tôi, hai
Mỹ, một Úc, trong nhà hàng, nên được chiều chuộng tối đa.

Từ trong bóng tối, mươi cô gái muốn nhờ chúng tôi giúp cho một chuyến đi Mỹ. Giờ
phút đó, người Việt Nam nào cũng bám lấy chúng tôi. Người quản lý đưa ra một
chai rượu nữa, nhưng ở phía Bắc đã nghe thấy nhiều tiếng nổ. Giây phút sau, có
tiếng nhiều loạt súng từ phía Tân Sơn Nhứt.

Có tiếng nói trên tần số của Embassy Mission Warden: "Đây trung ương... có tin
DAO bị pháo kích! Trung ương... trung ương, Mission, chúng tôi bị thiệt hại và
có người bị thương ở phòng thể dục! Trung ương... trung ương, có trực thăng võ
trang rơi gần cổng! Trung ương.... trung ương... đây là Security One. Có lính
thủy quân lục chiến bị bắn gần cổng trước! Chúng tôi cần cứu cấp NGAY!"

Từ vị trí thuận lợi, chúng tôi thấy hết vụ nổ này đến vụ nổ khác làm sáng cả mỗi
góc trời. Có vẻ như toàn bộ máy bay ở bến đậu bị pháo. Tôi trở vào phòng ngủ và
tìm cách liên lạc điện thoại với văn phòng. Không ai trả lời. Tôi trở lên sân
thượng, Harry Griggs đang liên lạc vô tuyến với NBC. Vẫn chưa có tìn gì của sứ
quán.

Vô tuyến của Mission lại lên tiếng: "Trung ương, đây Security One. Ở đây có ba
thủy quân lục chiến hy sinh. Xin cho ý kiến. Xin tiếp tay với chúng tôi."

Đến đây, có một tiếng nói khác trên máy vô tuyến.... một tiếng nói chúng tôi chưa
nghe thấy bao giờ. Một giọng nói trầm lắng và bình tĩnh, như một mệnh lệnh:
"Mission Control, Mission Control, đây Silver Hill. Tôi lập lại, đây là Silver
Hill, xin cho biết bạn nghe tôi rõ không? Chúng tôi nắm quyền chỉ huy tất cả mọi
công tác. Tất cả các liên lạc, giờ đây chuyển qua Silver Hill."

Không một ai trong chúng tôi nghe đến Silver Hill bao giờ. Bỗng dưng tôi nhớ
ra... là trong nhiều lần đến căn cứ không quân Andrews, tôi có thấy một bảng chỉ
đường hướng về Silver Hill. Thì ra, từ giờ phút này, Washington nắm quyền điều
hành tất cả mọi chuyện ở Việt Nam.

Chương 7 : Nhiệt độ lên 105 và cứ tăng lần

Ngày 29 tháng Tư - Sài Gòn - 10:00 giờ
Đường phố Sài Gòn vẫn vắng lạnh, im ắng. Giới nghiêm từ tối hôm qua vẫn còn hiệu
lực. Giống như cảnh một thành phố ma.

Trên sân thượng của khách sạn New Palace, chúng tôi đứng nhìn về phía Tân Sơn
Nhứt. Nhóm phóng viên của NBC đã chuẩn bị xong máy thu hình, lấy khăn tay che
đầu chống lại cơn nắng gay gắt của mặt trời buổi sáng. Người bồi bàn của khách
sạn đưa lên những mâm thức ăn cầm tay và những ly bia.

Chúng tôi thấy một chiếc C-119 lượn quanh sân bay, vài ba phút nhả đạn xuống
đất. Bỗng nhiên, chiếc phi cơ vỡ tan, biến thành một đám lửa sáng ngời rồi nhiều
mảnh vụn từ từ rơi xuống đất, xoay tròn và bốc khói. Neil Davis la lên: "Trời!
hỏa tiễn SAM!"

Tôi cảm thấy có ai vỗ vai. Quay lại, thì ra con người mà tôi thấy vắng mất mấy
hôm nay. Nguyễn Văn Thơm đang đứng trước mặt tôi. Tôi đã hỏi những người tôi
quen trước nay, xem có biết Thơm ở đâu không. Thơm là chuyên viên phòng tối
trong hai năm, lúc tôi phụ trách hình ảnh cho UPI-Saigon trong những năm 1960.
Thơm trốn quân dịch nên chủ yếu làm trong phòng tối. Ông đã in ra không biết bao
nhiêu bức ảnh đã được giải World Press Photo Awards và Pulitzer Prizes, nhờ rửa
được những bức hình độc đáo của những người nhiếp ảnh dũng cảm. Từ mấy tháng qua
không ai biết được tông tích của Thơm thì nay ông lại hiện ra.

Nhìn tôi, Thơm nài nĩ: "Ông Dirck Halstead, tôi rất vui mừng gặp được ông! Ông
có thể nào đưa hộ gia đình tôi đi không?" Đó là câu hỏi mà nhiều người trong bọn
tôi đã nghe mấy ngày nay. Tôi chẳng biết sẽ làm sao, nhưng tôi bảo ông Thơm là
cứ đem vợ con đến đây đi. Càng sớm càng tốt. Ông Thơm quay lưng đi, tôi nhắn
theo là, nếu được, nhờ ông mua cho tôi mấy cục pin cho máy vô tuyến. Ông Thơm
lủi thủi chạy xuống cầu thang.

Ông Thơm vừa chạy khuất là Harry Griggs, tay cầm vô tuyến liên lạc, la to: "Có
lịnh rồi! Đã đến lúc rồi! Di tản! Mọi người đi nhanh!"

Tôi chạy nhanh xuống phòng, và kêu điện thoại báo cho cơ quan thông tấn. Rowan
cho biết là sứ quán vừa ra lịnh cho toàn thể nhân viên Mỹ tập trung ngay ở các
địa điểm di tản. Trạm của chúng tôi nằm ngay đàng sau cơ quan thông tấn, ở khách
sạn Continental. New York muốn biết chắc chắn là chúng tôi phải rời Sài Gòn
ngay. Đã có quyết định là Mark Godfrey, người muốn ở lại, sẽ là người duy nhứt
trong cơ quan nằm lại. Những người khác được lịnh là phải có mặt ở điểm hẹn
ngay. Tôi mở chiếc máy thu thanh ở đầu giường và lời báo cáo thời tiết vẫn lập
đi, lập lại: "Nhiệt độ lên 105 độ và cứ tăng lần!"

Tôi chạy trở lên sân thượng. Toán phóng viên NBC đã đi mất. Tôi nhìn xuống
đường, thấy những người Mỹ từ bên trong khách sạn bỗng nhiên đổ ra đường, đi về
hướng đại lộ Nguyễn Huệ. Tôi bắt đầu gom góp máy chụp hình và nghĩ đến Thơm.
Quái quỷ cái anh chàng này đi đâu? Tôi chờ 10 phút.. Đường phố vẫn hoang vắng.
Một chiếc Jeep chở đầy thủy quân lục chiến Mỹ trong quân phục chiến đấu chạy về
hướng đại lộ.

Tôi đợi Thơm thêm 10 phút nữa. Tôi nghe tiếng trực thăng bay trên trời ở đằng
xa. Thật chán cái ông này! Tôi nhìn xuống đường lần nữa. Chẳng thấy Thơm đâu
hết. Tôi lấy túi đựng máy ảnh ra đi thì thấy một gói nhỏ bên cạnh. Mở ra. Trời,
những cục pin mà tôi nhờ Thơm mua. Ông ta ở đâu bây giờ? Tôi bắt đầu bấn loạn...
chờ vài phút nữa... Một cái bóng qua ngang tôi, ngó lên thì thấy một chiếc trực
thăng CH-54 Sea Stallion của Hải quân bay ngang. Tôi phải đi thôi!

Sài Gòn, đường Gia Long - 11:00 giờ
Một nhóm người Mỹ di chuyển thận trọng qua các đường phố hoang vắng dọc theo
khách sạn Continental Palace. Họ mang theo nào là ba lô, máy chữ, máy ảnh và
thiết bị thu thanh. Người Việt Nam nhìn theo chúng tôi và bắt đầu đóng cửa nhà
và cửa sổ. Những cái nhìn đó cho thấy họ đã đoán được điều gì rồi. Họ thấy rằng
chúng tôi đang cuốn gói.

Một sự im lặng kỳ lạ tiếp tục kéo dài trong khi chúng tôi tụ tập lại trước tòa
nhà số 35 đường Gia Long, trên tường còn những chữ mờ mờ "University of
Maryland, Saigon Education Center". Những toán người Mỹ và Tây phương khác cũng
đến nhập bọn với chúng tôi. Chẳng mấy lúc mà nhóm chúng tôi có đến mấy trăm
người đứng ở góc đường để chờ đợi.

Hai chiếc buýt sơn đen xuất hiện và lướt đến ngừng ngay trước mặt chúng tôi. Một
người lính thủy quân lục chiến Mỹ, mình mặc áo giáp, đầu đội nón sắt bước xuống
xe và hô to: "Đi thôi, quý vị!" Từng người một, chúng tôi leo lên xe. Một vài
người Mỹ giúp một người bạn Việt Nam leo lên xe buýt. Bên trong chiếc xe, bầu
không khí nóng oi ả vì không có máy điều hòa. Chiếc xe lăn bánh chẳng bao xa thì
chúng tôi tới đàng sau sứ quán Hoa Kỳ. Một đám đông gồm hàng trăm người Việt Nam
cố gắng trèo lên tường rào, trong khi thủy quân lục chiến phía bên trong xô đẩy
họ trở ra. Thấy xe chúng tôi đến, đám đông dàn hàng ngang trước đầu xe. Thủy
quân lục chiến trên xe la to: "Cứ chạy tới!"

Người tài xế hoang mang sợ hãi. Ông ta ngồi yên, bất động. Những quả đấm bắt đầu
đập mạnh lên tấm lưới sắt che chắn cửa sổ xe. Máu từ những nắm tay đập vào lưới
sắt bắt đầu ứa ra. Anh thủy quân lục chiến móc khẩu súng lục 45 ra, chỉa vào ông
tài xế và quát: "Cho xe chạy nhanh lên!". Chiếc xe từ từ chuyển bánh, bỗng
nhiên, chúng tôi cảm thấy bánh xe lăn trên thân người. Đám đông la ó. Anh lính
kề họng súng vào gáy ông tài xế và lập lại: "Cứ chạy đi!" Chúng tôi cảm thấy đau
lòng và lợm giọng khi chiếc xe cứ rẽ đám đông để tiến tới.

Căn cứ Tân Sơn Nhứt - 12:30 giờ
Cổng căn cứ không một bóng người khi chiếc buýt chạy ngang tượng đài cao nghệu
trước cổng, với hàng chữ ghi công: "Người bạn đồng minh cao quý... những sự hy
sinh của họ không khi nào bị lãng quên."

Chiếc xe dẫn đầu cán đại lên kẽm gai của rào cản cuối cùng rồi băng qua cổng của
DAO (Defense Attaché Office: phòng tham vụ quân sự, cơ quan cố vấn và viện trợ
quân sự Mỹ thu hẹp). Kề bên cổng là một chiếc xe của sứ quán bị lật ngửa. Những
cột khói đen to tướng bốc lên từ khu Air America, nằm bên kia đường.. Một chiếc
trực thăng hư hỏng, nằm ở đường mương, thiếu mất một gọng đáp, cánh quạt vẫn còn
quay. Chiếc buýt dừng lại bên trong cổng, trước bức tường dày cộm của DAO.

Hillary Brown và tôi vừa bước xuống xe buýt thì một tiếng nổ kinh hồn làm chúng
tôi ngã xoài xuống đất. Một quả đạn 130 ly vừa đánh trúng trạm Air America, cách
chúng tôi chừng năm mươi thước. Người lính với chiếc áo giáp cuối người bên trên
Hillary để bảo đảm an toàn cho bà, sau đó đứng lên hô to: "Hãy đi thôi quý vị...
đừng hoảng sợ!"

Vừa khom người, vừa chạy, chúng tôi phóng nhanh vào bên trong tòa nhà DAO. Hỏa
tiễn rơi tới tấp sau lưng chúng tôi. Một người phụ nữ Việt Nam ngã nhào, Mal
Browne của AP đỡ bà lên rồi đưa bà vào bên trong.

Bên trong một cái hành lang dài, những tiếng nổ bên ngoài chỉ nghe văng vẳng
thôi. Hàng trăm người Việt Nam và Mỹ ngồi dựa lưng vào tường, túi hành trang để
trước mặt. Mấy người lính Thủy quân lục chiến, đồ tác chiến nghiêm chỉnh, phát
cho mỗi người một tấm thẻ, dặn rằng: "Thẻ này dành cho quý vị, chớ không phải
cho hành lý."

Đang ngồi ở hành lang, một vài ký giả đã tháo máy chữ ra và bắt đầu viết bài.
Một nữ tu quỳ gối lên chiếc va li và cầu nguyện. Tòa nhà thỉnh thoảng rung rinh
vì đạn pháo nổ ngay bên ngoài. Một sĩ quan thủy quân lục chiến đi qua hành lang
và tìm cách trấn an chúng tôi. "Đừng có lo sợ, trực thăng đến bây giờ!"

Khu Tân Sơn Nhứt - 13:30
Đại tá thủy quân lục chiến, Alfred Grey, đầu đội nón sắt, thân mặc áo giáp bọc
ngoài áo thun, đang nằm dưới rãnh nước phía ngoài tòa nhà DAO, gần rạp chiếu
bóng. Ông đại tá đang liên lạc qua cái máy vô tuyến do một anh Thủy quân lục
chiến trẻ có vẻ sợ hải. Hai người cứ hụp đầu xuống mương đầy nước vì đạn pháo
rơi quanh họ.

Ông đại tá đang liên lạc với những chiếc trực thăng, cất cánh từ hàng không mẫu
hạm đậu ngoài khơi biển Nam Hải bay vào. Bỗng dưng, tiếng nói của ông bị tiếng
động của phi cơ phản lực lấn át. Mấy chiếc F4 của Hải Quân Hoa Kỳ nhào lộn trên
không, phóng tên lửa và ném bom. Những đám cháy đỏ rực bên ngoài tòa nhà. Ông
đại tá nhìn lên và thấy tôi đang bấm máy chụp hình. Ông nói to: "Tuồng hát sắp
mở màn." Miệng nở một nụ cười, ông chỉ tay về hướng nhà hát bị bỏ hoang. Lính
thủy quân lục chiến chạy nhanh vào tòa nhà, trong khi khói vàng tỏa ra trên bầu
trời màu xám.

Bay sà mặt đất, chiếc trực thăng Sea Stallion đầu đàn xuất hiện trước tiên, theo
sau là một chiếc khác. Hai chiếc đáp xuống bên trong tòa nhà, cánh quạt vẫn tiếp
tục quay nhanh. Bệ chất hàng phía sau hạ xuống và một trung đội thủy quân lục
chiến, với súng M-16, M-50 và súng cối phóng nhanh ra.. Trong nháy mắt, họ họp
thành đội hình bao quanh tòa nhà và núp kín.

Đồng thời, một thủy quân lục chiến khác nắm tay nữ tu, hướng dẫn một toán lối
trăm người Việt và Mỹ chạy nhanh từ tòa nhà DAO. Họ vừa khom lưng vừa chạy xuyên
qua hành lang nối liền DAO với rạp chiếu phim... xuyên qua phòng đợi của rạp
hát.... qua ngang người lính thủy quân lục chiến trẻ tuổi, đổ vào sân trống rồi
leo lên trực thăng.

Chỉ mất 90 giây, sau khi chiếc trực thăng Sea Stallion đầu đàn của đại tá
Herbert Fix hạ xuống, nó vọt trở lên, với tốc độ tối đa, mang theo chuyến hàng
quý giá, cũng như chiếc thứ nhì theo sau và tiến trình lại bắt đầu trở lại.

Chương 9 : Chúng tôi vừa bỏ đi

Ngày 30 tháng Tư - Ngoài biển Nam Hải, trên USS Blue Ridge - 11:30
Hầu hết tập thể báo chí di tản khỏi Sài Gòn ngày 29 tháng Tư đã tìm đường tới
được soái hạm của Tập đoàn Tác chiến (Task Force), chạy lang thang cách bờ biển
phía Tây của Việt Nam khoảng 50 hải lý.

Họ được đưa xuống trên nhiều tàu khác nhau của hạm đội và người nào cũng mang
theo phim hay băng ghi hình mà thế giới cần phãi xem qua. Đối với tôi thì không
còn kịp nữa rồi. Hôm đó là thứ Năm, nghĩa là tối thứ Tư ở New York. TIME
Magazine đóng cửa ngày thứ Sáu, thế nên dù sao tôi phải rời hạm đội đem phim đến
Subic Bay. Subic là điểm gần nhứt, từ đó ban văn thơ của TIME mới đưa lên chuyến
bay của Pan Am để về tới New York cho kịp giờ báo lên khuôn.

Chúng tôi tập hợp lại thành một phòng báo chí lâm thời trên tàu Blue Ridge. Lần
hồi, khi một ký giả hay một toán truyền hình nào đặt chưn lên tàu là chúng tôi
ráp nối tin tức lại, cho thấy chuyện gì đã xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua.

Sài Gòn giờ đây là một câu chuyện đã qua rồi! Quân Bắc Việt đã treo cờ của họ
lên dinh tổng thống, thế là bỗng dưng có một thành phố mới tên Hồ Chí Minh.

Trong khi chúng tôi đối chiếu tin tức, tôi thấy một con người đơn độc đứng gần
cửa ra vào mà chẳng một ai để ý.

Tôi nhận diện được Graham Martin, thế là mọi người đổ xô lại ông, đưa micro ra
phỏng vấn. Ông đại sứ có vẻ bịnh hoạn, mà ông bịnh thật tình. Ông bị cảm cúm và
mệt mỏi. Cuối cùng, ông bị bắt buộc rời khỏi nhiệm sở để lên chiếc trực thăng
đậu trên nóc sứ quán, trong khi người lính thủy quân lục chiến phụ trách an ninh
tung lựu đạn xuống cầu thang để ngăn cản đám đông người Việt Nam định nhảy lên
chiếc trực thăng cuối cùng. Mọi người đều đặt câu hỏi cho ông đại sứ, nhưng ông
chỉ quay đi và lẳng lặng bước xuống hành lang đi vào phía trong chiếc tàu.

Một phát ngôn viên của Hải Quân tìm cách ổn định lại phòng báo chí. Tất cả nhóm
báo chí đều viết bài đút kết cho câu chuyện của họ, nhưng còn có một vấn đề bất
ngờ. Sau khi ông đại sứ Martin đã di tản, mọi chuyến bay đều đình chỉ. Mấy tiếng
đồng hồ sau, có người nhớ ra rằng toàn bộ 10 người lính thủy quân lục chiến phụ
trách an ninh còn bị bỏ quên trên nóc sứ quán. Theo lịnh trực tiếp của Tòa Bạch
Ốc, một phi hành đoàn Sea Stallion, dẫu đã mệt nhoài cũng phải cất cánh trở lại
đem họ ra, ngay lúc xe tăng Bắc Việt chạy qua ngang tòa đại sứ.

Giờ đây, mối lo cấp thiết nhứt của báo chí là làm sao đưa sản phẩm của chúng tôi
- phim, băng hình và ghi chú - ra khỏi chiếc tàu này. Chúng tôi lập ra một ủy
ban, kiến nghị với Đô Đốc chỉ huy cuộc hành quân, và ông đồng ý cho một người
đáp trực thăng đi sang hàng không mẫu hạm Coral Sea. Tàu này có phi cơ loại
chong chóng, có thể đưa tài liệu đi Phi Luật Tân. Chúng tôi phải bắt thăm và tôi
là người may mắn. Tôi gom góp tất cả phim và băng hình của các cơ quan thông
tin, tạp chí và hãng thông tấn lại và vài ba phút sau tôi rời khỏi tàu Blue
Ridge.

16:00 giờ - Bay trên biển Nam Hải
Tôi bay trên một chiếc phi cơ loại COD (Carrier On-deck Aircraft, phi cơ chở
theo hàng không mẫu hạm), một phi cơ chong chóng được phóng để cất cánh từ tàu
Coral Sea. Chúng tôi bay về hướng Đông, với "kiện hàng" quý giá. Trong số những
người đi trên máy bay, có những nhân vật đặc trách công tác di tản, tất cả trên
đường đi căn cứ hải quân Subic Bay để báo cáo tình hình.

Tôi quay sang một sĩ quan thủy quân lục chiến, quần áo trận còn đẫm mồ hôi, hỏi
ý kiến của ông về diễn tiến vừa qua. Ngập ngừng đôi lúc, ông nói: "Chúng tôi là
lính cứu hỏa.. Giờ thì lửa đã tàn. Đó là một dịp cho nước Mỹ tụ tập lại. Đây là
lần đầu tiên chúng ta ra đi và bỏ rơi một người bạn đồng minh... Tôi vẫn tự hỏi
lòng mình liệu còn có gì để làm hơn nữa hay không? Giá như tôi có thêm trực
thăng, thêm máy bay hơn nữa? Dẫu cho điều gì đã làm được, tôi vẫn cảm thấy mình
đã bỏ rơi họ... Tôi cứ bỏ đi thế thôi."

Tôi bước ra phòng lái, và ngồi lên chiếc ghế phụ đàng sau hai phi công chánh và
phụ. Tôi hỏi họ có nghe ngóng gì thêm được tin tức của Sài Gòn không? Họ chỉ cho
tôi thiết bị để nghe trên chiếc ghế tôi ngồi và tôi đặt vào lỗ tai để nghe. Họ
bắt cho tôi băng tần FM của hệ thống quân đội Mỹ Sài Gòn. Khi phi cơ bay vào
vùng trời đen tối, tôi nghe được những âm thanh giống như nhạc Mantovani trên
đài phát thanh. Sau đó, một giọng người đưọc ghi sẵn nói rằng:" Đây là đài quân
đội (Mỹ), Sài Gòn." Ngừng một lúc, rồi sau đó tôi nghe Bing Crosby bắt đầu hát
"White Christmas".

Lời bạt:
Trên đây là tình hình đã xảy ra hơn ba mươi năm về trước, nhưng những biến cố
của mấy ngày cuối cùng ở Sài Gòn vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi không biết có người
nào, đã trải qua những cảnh tượng như thế mà không bị mủi lòng hay không.

Sau khi rời hàng không mẫu hạm Coral Sea, nhảy cóc nhảy nhái từ chiến hạm này
sang tàu nọ của hạm đội, tôi đã xin được một chỗ ngồi trên máy bay để tìm đường
đến Subic Bay, mang phim của tôi và của các đồng nghiệp đến nơi. Những tài liệu
đó về đến New York thì báo đã lên khuôn, nhưng Sài Gòn là chuyện xưa cũ đã qua
rồi. Tạp chí TIME đã in xong, với một cái ảnh "nghệ thuật" của Hồ Chí Minh nơi
trang bìa, và hầu hết những hình ảnh và bài viết trang trong thì lấy của các
hãng thông tấn khác. Phần lớn những hình ảnh của bút ký này chưa được đăng lúc
bấy giờ, dẫu cho hình ảnh này cũng đã làm cho tôi được giải "Robert Capa Gold
Medal" hồi đó.

Nhiều người trong chúng tôi đã dừng lại Hong Kong đôi ba ngày, sau khi Sài Gòn
sụp đổ. Ở đó, chúng tôi gặp được Hunter Thompson, người đã rời Sài Gòn khá lâu
trước khi có đợt di tản. Chán nản vì không in được đúng lúc những câu chuyện của
mình nên chúng tôi trúc bầu tâm sự cho Hunter, với hy vọng là, ít ra anh ta cũng
đưa những tình tiết đó vào một bài viết của anh. Thế nhưng, anh chẳng viết được
một chữ nào hết.

Tạp chí TIME đưa cô vợ Ginny của tôi sang Hawaï để gặp tôi. Tuần lễ sau đó,
chúng tôi sinh sống trong một "túp lều tranh" lý tưởng và bình thản ở Kona. Thế
nhưng, thay vì thư giản, thoải mái, tôi lại xuống tinh thần ghê gớm. Tôi dạo
chơi trên bãi biển, không nói lên được lời nào về những gì tôi đã chứng kiến.
Một năm sau, hai đứa tôi cưới nhau.

Mùa thu năm 1976, gom góp lại những hình ảnh và ghi chú của tôi về Việt Nam, tôi
dựng lại được một chuyện phim. NBC chịu mua chuyện đó để chiếu trong chương
trình "Movie of the Week". Thế nhưng, khi bắt đầu làm phim thì Brandon Tartikoff
lên chức trưởng đài nên dự án bị bỏ đi. Bút ký này được thu nhặt từ những ghi
chú ban đầu của tôi.

Năm 1995, tôi thăm lại Việt Nam để sáng tác ra tập phim tài liệu "Goodnight
Saigon". Lúc bấy giờ, ông Nguyễn Văn Thơm làm chủ tiệm rửa hình nhanh, chỉ cách
nơi mà tôi gặp ông lần cuối hồi 1975 một khu phố. Graham Martin, người đã rời sứ
quán sáng sớm ngày 30 tháng Tư, mang theo con chó và quốc kỳ Hiệp Chúng Quốc,
trở về Mỹ, lang thang trong những văn phòng của bộ Ngoại giao mấy năm cho đến
ngày về hưu. Đại tá Alfred Grey, người đã điều hành cuộc di tản thủy quân lục
chiến, tiếp tục con đường quân nghiệp và lên chức tư lịnh thủy quân lục chiến
Hoa Kỳ. Hillary Brown, người nữ ký giả, vẫn làm phóng sự về những điểm nóng trên
thế giới cho hãng tin ABC News. Roy Rowan, người đã đóng cửa văn phòng TIME ở
Sài Gòn, vừa đi Việt Nam về, với một bài viết quan trọng cho Fortune Magazine.
Neil Davis, phóng viên NBC ở trên sân thượng cùng với tôi ngày cuối cùng, đã tử
nạn ngày 9 tháng Chín năm 1985 ở Bangkok trong khi làm phóng sự về một cuộc đảo
chánh. Michel Laurent là chuyên viên hình ảnh cho báo chí nằm xuống cuối cùng ở
Việt Nam.

Quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn, san bằng mồ mã lính chiến Nam Việt Nam và đổi tên
thành phố lại là Hồ Chí Minh. Ngày nay, vị tướng già nua, được Bắc Việt chính
thức bổ nhiệm để cai quản thành phố (Tướng Trần Văn Trà), với đôi chưn không, đi
lang thang phố phường, phản đối lại thành quả của cuộc cách mạng mà ông đã cam
go giành được, đã bị đánh đổi để lấy một sự kết hợp kỳ quái của tham nhũng và
thương mại.

Những ngôi nhà chọc trời hầu như mỗi tháng mỗi mọc lên, du khách Hoa Kỳ đi chật
đường phố, chui vào những nhà hàng theo kiểu thời thượng của California.

Chiếc chiến đấu cơ phản lực F-15, ngày đó của tháng Tư năm 1975, đã hướng dẫn
đánh bom xuống dinh Độc Lập, giờ được đem triễn lãm tại một công viên ỡ trung
tâm thành phố. Tên phi công, đã từng đào ngũ với phi cơ bay ra vùng Việt Cộng,
nay là trưởng phi cơ của Hàng không Việt Nam và con gái của ông là tiếp viên
trên các chuyến bay của hãng này. Ước mơ còn lại của ông ta là lái chuyến bay
đầu tiên của công ty đi Hoa Kỳ.

Dirck Halstead Halstead
Washington, ngày 7 tháng Năm, 2000

Cố Nhân
(Viết theo ý chính của bài "White Christmas, The Fall of Saigon" của Dirck
Halstead, The Digital Journalist, May 2000)
[http://digitaljournalist.org/issue0005/wcintro.htm]

Green Forest (New Orleans) ngoài khơi Vũng Tàu ngày 30-4-1975

Green Forest (New Orleans) ngoài khơi Vũng Tàu ngày 30-4-1975 đang bốc những người tỵ nạn từ những xa lan.  Đoàn tàu của Hải Quân Hoa Kỳ ngo...